Khó khăn lớn nhất trong việc hiểu Lão Tử là mức độ suy nghĩ của chúng ta. Rất khó hiểu ông ấy qua phương thức suy nghĩ của chúng ta. Cách Lão Tử nhìn vào mọi thứ là ngược với cách nhìn của chúng ta, logic của ông ấy là tuyệt đối đối lập. Ông ấy nhìn cuộc sống từ chiều khác hoàn toàn. Do đó mọi câu hỏi bạn hỏi có liên quan tới bản thân bạn nhiều hơn và rất ít liên quan tới Lão Tử.
Nếu chúng ta muốn hiểu Lão Tử, chúng ta sẽ phải gạt sang bên phương thức suy nghĩ của chúng ta. Nếu chúng ta lại gần Lão Tử bằng quan điểm của chúng ta, lời của chúng ta, các khái niệm định kiến của chúng ta, sẽ khó quyết định được liệu ông ấy là đúng hay không. Gạt sang bên cái nhìn và quan niệm của bạn đi. Chỉ thế thì bạn sẽ hiểu ông ấy. Thế thì bạn sẽ có khả năng phán xét liệu ông ấy là đúng hay sai, nhưng không trước điều đó. Chỉ để hiểu là chướng ngại vì cách nghĩ của chúng ta là một thứ và cách nghĩ của Lão Tử là chính cái đối lập. Cứ dường như chúng ta thấy rõ mọi thứ bằng xúc giác trong khi ông ấy dùng mắt và tai. Hay dường như chúng ta dùng mắt của mình còn ông ấy dùng tai của ông ấy. Thế thì ngôn ngữ trở thành khó.
Như tôi đã nói hôm qua, nếu ý thức tăng lên, vô thức cũng sẽ tăng. Bất kì cái gì chúng ta hiểu như ý thức là điều Mahavira, Krishna hay Phật đã giải thích cho chúng ta, và việc giải thích này không còn đúng với Lão Tử. Cho nên các câu hỏi nảy sinh trong bạn không phải là câu hỏi của bạn mà là câu hỏi nảy sinh từ dòng chảy các khái niệm ở bên trong bạn. Bây giờ bạn khó chịu. Điều này nghĩa là gì?
Điều này nghĩa là: nếu Mahavira đạt tới hiểu biết tối cao, vì ông ấy, một người phải rơi vào trong vô nhạy cảm hoàn toàn. Điều này trở thành hành động bạo hành. Chúng ta thậm chí không thể nghĩ được rằng một người như Mahavira người là hoá thân của bất bạo hành, lại có thể mang tới điều như vậy! Điều có vẻ kì lạ là khi ý thức của một người phát triển, ý thức của người khác chìm vào trong vô nhạy cảm mặc dù không có lỗi của người đó.
Nếu chúng ta truy vấn Lão Tử về điều này, ông ấy sẽ không nói rằng ý thức của Mahavira được tăng lên. Ông ấy sẽ nói, “Mahavira đã đi ra ngoài ý thức và vô thức.” Khi một người đi ra ngoài cả hai cái đối lập, không có dấu vết còn lại của điều đó trên thế giới. Nếu chúng ta hỏi Lão Tử về Krishna, ông ấy sẽ không nói ông này là người siêu ý thức. Nếu ông này là người siêu ý thức, thế thì người khác siêu vô thức được cần như đối trọng.
Theo Lão Tử, có những người đã đi ra ngoài ý thức và vô thức, họ ở bên ngoài nhị nguyên. Không phản ứng nào xảy ra trong thế giới này vì họ.
Nhưng những người ở bên trong cực đỉnh của nhị nguyên thì nhất định nghĩ dưới dạng cân bằng và đối trọng. Lão Tử sẽ không gọi Mahavira là ‘sadhu’ vì sadhu bị đối lập với ‘phi-sadhu’. Tốt và xấu là nhị nguyên. Lão Tử sẽ nói rằng Mahavira đã đi ra ngoài cả hai. Ông ấy không tốt không xấu, vì để là thiện ông ấy phải được kết nối với ác. Nếu ông ấy là thiện vì ông ấy không nói dối, vì ông ấy không ăn cắp, vì ông ấy không nổi giận, thế thì ông ấy phải được kết nối với dối trá, với ăn cắp, với giận. Mọi phẩm chất tốt được kết nối với phẩm chất xấu; chúng không thể đứng tách rời khỏi nhau. Cho nên nếu chúng ta nói rằng Mahavira là thiện, ông ấy vẫn không ở ngoài nhị nguyên. Và nếu ông ấy không siêu việt trên nhị nguyên, ác cũng có thể đi ra từ ông ấy. Nhưng Mahavira không tốt không xấu. Hai lớp này không áp dụng cho ông ấy. Ông ấy ở trên cả hai.
Khó đi theo tuyến ý nghĩ này, vì chúng ta đã phân chia luồng suy nghĩ thành hai phân loại. Không có phân loại thứ ba cho chúng ta, trong khi chính phân loại thứ ba này là phân loại đích thực. Người đi vào phân loại thứ ba này đạt tới trạng thái tuyệt đối mà Lão Tử nói tới là Đạo, điều là tôn giáo tự nhiên.
Cho nên phiền phức của bạn là dòng chảy suy nghĩ định trước của bạn. Bỏ dòng chảy này sang bên và chảy theo luồng ý nghĩ của Lão Tử; cố hiểu điều ông ấy đang cố nói. Không nhất thiết phải đồng ý với ông ấy. Bạn có thể không đồng ý.
Như tôi có thể thấy, tôi nghĩ bất kì người nào đã hiểu được ông ấy sẽ không bao giờ nói ông ấy sai. Người nghĩ ông ấy sai chỉ nói vậy vì người đó đã không hiểu đúng Lão Tử. Cách diễn đạt của Lão Tử là khác, cách tiếp cận của ông ấy là khác, phương pháp đưa ra vấn đề của ông ấy là khác. Nếu bạn bám lấy phương pháp của ông ấy, bạn sẽ thấy bản thân bạn lâm vào khó khăn. Đây là khó khăn người ta thấy bản thân mình rơi vào. Cách diễn đạt của Mahavira là khác. Cách diễn đạt của Phật cũng vậy. Cách diễn đạt của Krishna cũng vậy. Và Christ là khác với tất cả họ. Xung đột giữa tôn giáo bị gây ra bởi các phương thức diễn đạt khác nhau này, điều thường không được mọi người hiểu đúng. Người vẫn còn chưa trở nên đủ trí huệ để hiểu rằng khác biệt trong diễn đạt không tạo ra khác biệt trong chân lí vĩnh hằng. Mahavira diễn đạt chân lí theo cách của ông ấy, Phật diễn đạt theo cách riêng của ông ấy. Họ có những cách diễn đạt đặc trưng riêng của họ. Chân lí họ phơi bày ra là lớn tới mức nó có thể hấp thu Phật, Mahavira, Krishna, Christ và bất kì số người chứng ngộ nào.
Chúng ta nghĩ chân lí là một lượng được cho. Nếu một vật được chứng minh trong nó, không có chỗ cho cái khác. Chân lí là bao la. Nó có chỗ cho mọi người, ngay cả cho những người ngược với bạn. Nhưng chúng ta nghĩ khác. Nếu tôi được chứng minh trong chân lí, không có cách nào cho người khác cũng được chứng minh trong chân lí. Thế thì điều tôi ôm giữ là chân lí; mọi điều khác là phi chân lí. Chân lí là việc xảy ra rất lớn bao bọc cả cái đối lập nữa.
Điều này là thú vị: phi chân lí là thứ nhỏ tới mức nó không thể chứa được cái đối lập. Bạn đã bao giờ nhận ra rằng khi bạn hỗ trợ cho phi chân lí, bạn không bao giờ chấp nhận cái đối lập của nó? Nếu bạn chấp nhận, phi chân lí bị mất. Phi chân lí là thứ bị siết lại mà không có mấy chỗ bên trong bản thân nó. Do đó người nói điều phi chân lí không bao giờ chấp nhận điều người khác nói. Nhưng chân lí là việc xảy ra bao la. Cái đối lập với điều bạn duy trì cũng có thể là chân lí. Chân lí có chỗ cho cả hai. Một mình người đạt tới chân lí tối cao là người thấy chỗ cho mọi chân lí bên trong chân lí của người đó.
Nhưng chúng ta có cái nhìn hạn hẹp, co chặt lại; chúng ta bị buộc vào các quan niệm riêng của chúng ta. Mahavira đã nói rằng bạn không đủ tư cách cho buổi darshan cho tới khi bạn vươn lên trên cái nhìn bó hẹp của bạn. Điều này có vẻ mâu thuẫn. Điều Mahavira ngụ ý là ở chỗ cái nhìn đúng là cái nhìn vươn lên trên mọi cái nhìn. Cái nhìn ngụ ý: cách tôi nhìn. Nếu tôi đã trở thành một thế với cách nghĩ của tôi, tôi sẽ không bao giờ có khả năng đánh giá cao cách nghĩ của bạn.
Nếu tôi không bị buộc vào cách nghĩ riêng của tôi, tôi sẽ có khả năng hiểu và đánh giá cao mọi cách nhìn khác vào mọi sự. Thế thì tôi bắt đầu hiểu rằng không thành vấn đề làm sao và ở đâu sông chảy, một ngày nào đó tất cả chúng đều ra tới đại dương. Thế thì tôi sẽ không nói rằng sông chảy sang đông sẽ không bao giờ ra tới biển, chỉ bởi vì sông của tôi đang chảy sang tây. Thế thì tôi có được thoáng nhìn về đại dương trong mọi sông. Nhưng nếu cái nhìn bị bó lại, khó khăn là mênh mông. Thế thì không có cách nào để hiểu.
Lão Tử là khó hiểu theo khía cạnh này, vì cách nghĩ của ông ấy, cách nhìn của ông ấy về mọi thứ, phương pháp diễn đạt của ông ấy là duy nhất. Nhưng có niềm vui dứt khoát trong việc hiểu ông ấy, và nếu bạn hiểu ông ấy, bạn sẽ có tiến hoá, cái nhìn của bạn sẽ mở rộng, ý thức của bạn sẽ đạt tới các chiều cao lớn hơn. Nếu bạn không thể hiểu được ông ấy, bạn sẽ vẫn còn bị bó lại, hạn hẹp.
Điều bao giờ cũng tốt hơn là hiểu quan điểm của những người nghĩ ngược với chúng ta. Người nghĩ như bạn không thể thay đổi được bạn, người đó chỉ có thể thêm cái gì đó nhiều hơn cho bạn. Bạn có mười lí do để hỗ trợ cho bản thân bạn. Bây giờ bạn sẽ có mười hai, mười lăm. Nhưng người nghĩ ngược với bạn mở ra những chân trời mới cho bạn. Thế thì, bạn không chỉ thêm cái gì đó nhiều hơn cho cảm nhận của bạn, mà bạn còn làm giầu có hơn cho ý thức của bạn nữa.
Để hiểu Lão Tử, bạn phải gạt sang bên phương thức cảm nhận của bạn một chút, bằng không cảm nhận của bạn sẽ nêu ra những câu hỏi mà sẽ là vô nghĩa vì chúng sẽ không dựa trên việc hiểu của Lão Tử.
Nếu bạn hiểu kinh này, điều đó sẽ trở thành rõ ràng cho bạn. Gạt thông minh của bạn sang một bên đi. Điều này dường như khó. Tìm tri thức – điều này chúng ta có thể hiểu. Nhưng giũ sạch tri thức của bạn là khó.
Chúng ta có ba từ: một là thông tin, hai là hiểu biết và ba là trí huệ. Thường thì, thông tin được coi như hiểu biết. Người càng biết nhiều, người đó càng coi bản thân mình là thông thái. Số lượng ngụ ý chất lượng cho người đó. Nhưng điều đã xảy ra chỉ là việc trí nhớ của người như vậy đã tăng lên. Người đó bây giờ là máy tính lớn hơn; người đó đã không tiến bộ. Thông tin không phải là hiểu biết; trí nhớ không phải là hiểu biết. Khi thông tin tăng lên, người ta trở thành thông thái, có giáo dục, nhưng người đó không trở nên trí huệ.
Đã từng có nhiều người trên thế giới đã nói, “Không thu thập thông tin. Đạt tới hiểu biết. Thông tin là vô dụng. Dù bạn thu thập nhiều thông tin tới đâu, tất cả nó sẽ toàn là được vay mượn. Hiểu biết là của riêng người ta. Do đó bỏ cái vay mượn và đạt tới bằng kinh nghiệm riêng của bạn.” Điều này là hoàn toàn hiểu được cho chúng ta. Nhưng Lão Tử đi một bước xa hơn và nói. “Bỏ hiểu biết nữa; vì việc biết và không biết này là trò chơi nhị nguyên. Nó nữa cũng là xung đột. Bỏ cả cái này nữa.”
Ngay cả điều này chúng ta có thể hiểu. Phật nữa đã nói, “Ông sẽ thu được cái gì bằng việc biết? Ông đã nghiên cứu các kinh sách shastras. Giúp ích gì?” Câu hỏi này không phải về việc biết, nhưng về phát triển trí huệ của chúng ta, hiểu biết bên trong của chúng ta. Việc hiểu của chúng ta phải tăng lên. Trí huệ là bản chất của hiểu biết. Cũng giống như hương thơm được đạt tới bằng việc ép tinh chất của hoa, trí huệ là tổng và bản chất của mọi hiểu biết, mọi kinh nghiệm. Trí huệ là hương thơm. Khi cả nghìn kinh nghiệm và hiểu biết được nén lại, một giọt trí huệ được đạt tới.
Nhưng Lão Tử nói, “Bỏ cả trí huệ của ông nữa.” Điều này là quá thể! Bỏ thông tin điều này chúng ta có thể hiểu vì nó toàn là hiểu biết vay mượn. Bỏ hiểu biết điều này nữa chúng ta cũng có thể hiểu vì có nhị nguyên của hiểu biết và dốt. Nhưng nếu chúng ta buông bỏ trí huệ, tâm trí sẽ nói, “Thế thì tôi sẽ trở thành như hòn đá! Thế thì khác biệt gì giữa tôi và vật chất trơ ì?” Thế thì, bạn sẽ tranh cãi, “khác biệt gì giữa tôi và cái ghế tôi ngồi lên?” Những câu hỏi này được nêu ra bởi tâm trí trở thành cản trở trong việc hiểu của chúng ta về Lão Tử.
Lão Tử nói, “Bỏ khôn ngoan của ông, bỏ trí huệ của ông.” Ông ấy ngụ ý cái gì? Ông ấy ngụ ý rằng cái được hiểu thấu cũng có thể bị bỏ đi, vì nó không thuộc vào bạn. Cái mà bạn không thể buông bỏ là trí huệ thực của bạn. Bất kì cái gì bạn có thể bỏ, và bỏ rồi, để nó đi. Một khoảnh khắc sẽ tới khi bạn sẽ nói, “Tôi chẳng có gì thêm để bỏ.” Bạn không có nhà, không của cải, không thông tin, không hiểu biết, không trí huệ, không kinh nghiệm. Khoảnh khắc bạn cảm thấy bạn chẳng có gì còn lại mà bạn có thể từ bỏ, chính khoảnh khắc đó bạn đạt tới trí huệ thực. Trí huệ mà bạn e ngại từ bỏ vì sợ trở thành vô tri vô giác không là trí tuệ.
Hiểu cho rõ: cái mà không thể từ bỏ được là trí huệ thực. Do đó Lão Tử nói, “Bỏ trí huệ” – vì cái mà bạn có thể buông bỏ đi, không thể là trí huệ. Trí huệ, theo Lão Tử, là chính bản tính của khôn. Người ta không thể bỏ được bản tính của người ta. Cái mà chúng ta có thể bỏ được thì không thể là bản tính của chúng ta.
Lão Tử nói, “Duy nhất một mình cái đó phải còn lại, cái ‘tôi hiện hữu’.” Phải có đống thông tin và hiểu biết vay mượn. Cho dù nó là của riêng tôi, nó không đáng mang theo. Kinh nghiệm vay mượn là vô dụng. Kinh nghiệm riêng của người ta cũng là chết. Điều tôi đã biết hôm qua là chết hôm nay. Tinh tuý của điều tôi đã đi tới biết hôm qua là trí huệ. Nó đã trở thành quá khứ; nó đã biết thành bụi. Than đá biến thành tro, một thời nó đã là thiết yếu cho lửa cháy. Nhưng, để than hồng được giữ cho cháy, chúng ta phải gạt tro đi.
Lão Tử nói: “Trí huệ của ông giống như tro, che phủ bản tính của ông.” Nó tới từ chính cái ngã của bạn; bạn là than hồng. Gạt tro đi, để than hồng còn lại; để chỉ bản tính của bạn còn lại. Để không cái gì che phủ nó. Dù đó là tro của hiểu biết vay mượn hay hiểu biết riêng của bạn – cả hai đều là tro – chúng phải bị chùi sạch. Không giữ tro của lửa hồng riêng của bạn chỉ bởi vì nó là của riêng bạn.
Nếu bạn sống trong năm mươi năm, tro của kinh nghiệm năm mươi năm đã tụ lại trên bạn. Trong tro này điều bạn đã học được từ người khác là thông tin; điều bạn đã tự mình biết là hiểu biết. Tổng cộng thông tin và hiểu biết, điều tinh tuý tạo ra hương thơm bên trong bạn, là trí huệ của bạn. Nhưng Lão Tử nói, “Bỏ cả cái này nữa. Chỉ là cái ngã thuần khiết của ông.” Trở thành bản tính trần trụi của bạn – cái mà bạn là vậy. Đây là điều Mahavira gọi là atman và Phật gọi là rỗng. Đây chỉ là những khác biệt nói ra. Lão Tử gọi nó là tự nhiên, Đạo.
“Dứt Thánh bỏ Trí, dân lợi trăm phần.” Nếu mọi người trở lại và trở nên được cố định trong bản tính thuần khiết của họ, thế thì buồn và đau, khổ và lo, căng thẳng và lo nghĩ sẽ biến mất; và hồn nhiên sẽ nở hoa bên trong bản thân họ. Một khi tải trọng kinh nghiệm của bạn được loại bỏ khỏi ý thức, hồn hay ý thức, hay bất kì cái gì bạn chọn để gọi cái ở bên trong chúng ta – vẫn còn lại trong điều Heidegger nói tới như bản thể thuần khiết của nó. Đây là điều Lão Tử đang nói tới. Thế thì mọi người sẽ thịnh vượng cả nghìn lần.
Chúng ta cảm thấy mọi người sẽ thịnh vượng khi hiểu biết tăng lên, khi kinh nghiệm và thông tin tăng lên, thông minh tăng lên. Lão Tử nói chính cái đối lập. Thực tại, khi mọi thứ này tăng lên, bụi của chúng bắt đầu tụ lại hết tầng nọ tới tầng kia lên bản tính của chúng ta và than hồng bên trong bị che kín dưới trọng lượng của chúng. Thế thì điều đó trở thành nhiệm vụ của Hercule để đạt tới bản thân người ta. Sẽ có nhiều tầng để mở ra tới mức sẽ gần như không thể nào đạt tới cái ngã.
Con người giống như củ hành. Bóc tầng này ra, và có tầng khác; lại bóc tầng này ra và lại có tầng khác. Bạn không là gì ngoài đống các hiểu biết, kinh nghiệm, thông tin, việc hiểu, giáo dục, dấu ấn, văn hoá và truyền thống. Cái ngã của bạn ở đâu, bạn không biết. Người bị ẩn kín bởi các tầng che phủ riêng của mình. Lão Tử bảo chúng ta loại bỏ mọi cái che phủ của chúng ta và hiện hữu trong cái mà bạn không thể bỏ đi. Thế thì bạn sẽ thực sự được lợi. Thảm hoạ lớn nhất có thể xảy ra cho một người là đánh mất cái ngã riêng của mình.
Tiêu đề của kinh này là: Nhận ra cái ngã đơn giản. Từ ‘đơn giản’ nên được lưu ý. Nó truyền đạt phẩm chất của tính tự nhiên, tính tỉnh táo.
Jesus và Socrates cả hai đã nói: “Biết bản thân ông.” Upanishads cũng đã dùng thuật ngữ này. “Biết bản thân ông, nhận ra atman.” Lão Tử nói: “Nhận ra cái ngã đơn giản.” Không phải cái ngã mà các nhà thông thiên học nói tới, hay các học giả thông thái thảo luận. Biết cái ngã đơn giản mà tồn tại thậm chí bên trong người dốt. Không có tham chiếu tới học thuyết, kinh sách – chỉ cái là bạn đơn giản nhất, trong mọi sự trần trụi của bạn, trong mọi tính tự nhiên của bạn, chỉ biết cái đó. Nhưng để biết điều này, bạn phải xoá đi mọi thứ bạn đã biết, trừ tiệt nó hoàn toàn. Bất kì cái gì bạn đã biết cho tới giờ bạn sẽ phải lau sạch. Bóc đi các tầng của củ hành cho tới khi không cái gì còn để bóc; duy nhất rỗng còn lại. Chỉ thế thì biết rằng bạn đã đạt tới gần với cái ngã đơn giản của bạn. Do đó, loại bỏ hiểu biết và thu lợi gấp hàng trăm lần.
“Dứt Nhân bỏ Nghĩa, dân lại thảo lành.”
Điều thường xảy ra là người không thể yêu được bất kì ai bắt đầu yêu nhân loại. Rất khó để yêu một người; rất dễ yêu nhân loại. Khó yêu hàng xóm của bạn; rất dễ yêu loài người. Yêu một người gây ra nhiều vấn đề, trong khi không có vấn đề gì khi có liên quan tới toàn thể nhân loại. Nhân loại ở đâu? Người hiện hữu; nhân loại chẳng có ở đâu cả. Bất kì chỗ nào bạn đi, bạn sẽ thấy người; bạn sẽ không thấy nhân loại ở đâu cả. Nhân loại là khái niệm trừu tượng, và rất dễ yêu khái niệm. Rất dễ yêu Mẹ Ấn Độ, nhưng rất khó yêu mẹ riêng của bạn. Mẹ Ấn Độ là một khái niệm; mẹ riêng của bạn là người sống. Bất kì mối quan hệ nào với người sống đều mang tới vấn đề trong việc thức dậy của nó, điều dẫn tới xung đột và bất hoà.
Do đó nói chung người ta thấy rằng những người theo chủ nghĩa nhân đạo là những người đã không yêu được bất kì một người nào. Thế thì họ bắt đầu yêu điều mơ ước, ý tưởng, khái niệm. Khái niệm không mang bất định, không mang khó khăn. Tuy nhiên đây là lừa dối lớn. Bạn không thể yêu nhân loại; bạn chỉ có thể yêu người.
Yêu là cuộc hành trình. Nó là việc làm thuần khiết thường xuyên, phép thử không dừng, là lửa mà người ta phải đi qua một cách không dừng. Nơi có nhân loại, không có lửa vì không có ai ở phía bên kia; bạn là một mình. Nói rằng bạn đã yêu nhân loại ngụ ý bạn đã không yêu chút nào. Đó chỉ là thủ đoạn để che giấu sự kiện này.
Nói chung chuyện xảy ra là người không thể yêu một cá nhân bắt đầu yêu Thượng đế. Nhưng nếu người đó không có khả năng yêu con người, làm sao người đó có thể yêu Thượng đế? Yêu Thượng đế không phải là thủ đoạn để trốn khỏi việc yêu con người. Thay vì thế, yêu Thượng đế là đỉnh cao của yêu mãnh liệt với cá nhân. Bạn yêu một người nhiều thế, nhiều tới mức người đó trở thành lối mở. Người đó không còn là cá nhân. Cái vô hạn bắt đầu tới qua người đó – và Thượng đế đứng trên bậu cửa của bạn!
Nhưng từng người trong chúng ta là cánh cửa đóng. Có mọi tường và không có cửa sổ. Lối vào là không thể được từ bất kì phía nào. Thế thì một cá nhân như vậy nhắm mắt lại và bắt đầu yêu Thượng đế, một Thượng đế được tìm thấy chỉ trong tưởng tượng và không có ở đâu khác. Thượng đế ở mọi nơi, nhưng bất kì chỗ nào chúng ta chạm vào ngài chúng ta sẽ thấy cá nhân. Nếu một người muốn yêu một Thượng đế phi cá nhân, người đó đang lừa bản thân mình. Người đó đang phạm sai lầm thiếu yêu trong bản thân mình như yêu với Thượng đế và chỉ lừa bản thân mình.
Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.19 Sống trong tính tự phát chân thật và không trong học thuyết và đúng mực
