Việc khải lộ cái ngã là không thể được bằng việc bắt đầu cuộc hành trình đi vào trong với các định kiến. Xin thầy giải thích liệu xu hướng đi tới việc tự biết mình không định kiến có là có thể không. Nguyên nhân cơ bản của việc truy hỏi chẳng phải là việc biết trước về thế giới đối thể sao?
Câu hỏi này là đầy định kiến. Bạn của chúng ta nói không thể nào đi vào bên trong bản thân người ta mà không có những định kiến nào đó. Bây giờ điều này được coi như đương nhiên. Bạn của chúng ta đã đi vào bên trong và tìm ra chưa? Nếu chúng ta bắt đầu với ý tưởng này, bản thân ý tưởng này sẽ trở thành cản trở và sẽ không thể nào đi vào bên trong được; vì thế thì ý nghĩ này nảy sinh: “Tại sao dốc sức cho cái mà không thể có được?”
Là vô quan niệm là giữ cho tâm trí mở, không biết bất kì cái gì. Không làm quyết định rằng nó là có thể hay không thể. Trải nghiệm đi, và để quyết định đi theo trải nghiệm. Nếu bạn quyết định trước, tính khoa học của phương pháp bị mất. Thế thì tâm trí sẽ phấn đấu để chứng minh chỉ cái bạn đã coi là đương nhiên có. Chúng ta bao giờ cũng có xu hướng chứng minh điều chúng ta tin, vì một mình cái đó thoả mãn cho tâm trí.
Một người bạn tới và bảo tôi: “Khi thầy nói về Gita, tôi cảm thấy rất sướng; nhưng khi thầy nói về Lão Tử, tôi không cảm thấy sướng. Thay vì thế, tôi trở nên nghĩ nhiều.”
Gita làm hài lòng vì Gita là chủ đề được công nhận. Sướng tới từ việc biết rằng tôi đang nói chính điều anh ta biết. Tâm trí thấy an bình vì bản ngã được làm mạnh bằng viên gạch khác. Ngôi nhà của bản ngã đã được mở rộng. Nhưng nếu tôi thấy rằng bằng việc nghe cái gì đó một viên gạch của bản ngã đã rời ra và có vết nứt ở nền móng, thế thì tôi nhất định lo nghĩ. Chúng ta không trong việc truy tìm chân lí. Việc truy tìm tới từ tâm trí của chúng ta. Tâm trí chúng ta phải chứng tỏ là đúng. Mọi Mahavira và mọi Phật phải đứng chứng kiến cho điều đó, và nói, “Ông là tuyệt đối đúng!” Thế thì tâm trí trở nên rất sướng.
Nhưng những người này – Mahavira, Phật, Christ, Krishna – họ là những người gây rắc rối. Họ hầu như không lo nghĩ gì về bạn. Cái là đúng là đúng. Thêm vào đó, không thành vấn đề dù bạn bị phá huỷ. Nhưng nhớ, từ bi của họ là vô biên. Nếu họ mà chiều theo bạn và nói bạn đúng, bạn bao giờ cũng vẫn còn là người ốm. Ốm của bạn sẽ tăng lên nếu nó được chứng thực. Bất kì khi nào bạn quyết định theo một quan niệm, việc truy tìm chân lí kết thúc ở đó và lúc đó. Để tiến tới chân lí bạn phải hoàn toàn không thiên vị.
Bạn của chúng ta đã nói thêm, “Nếu chúng tôi không tin rằng có atman bên trong, làm sao việc nghiêng về đi vào bên trong phát triển được?”
Anh ta nghĩ rằng tò mò được khuấy động khi chúng ta biết có cái gì đó. Nhưng tò mò cũng có thể là ở chỗ có thể có cái gì đó, có thể không có cái gì đó. Nếu bạn đi qua bên ngoài phòng này chắc bạn sẽ tò mò để biết cái gì ở bên trong căn phòng mà không có việc biết trước? Sự thực là, nếu bạn đã biết cái gì ở bên trong phòng, sẽ không có nhu cầu tò mò. Niềm tin càng lớn, việc truy hỏi càng ít và nếu đức tin của bạn là đầy đủ, việc truy tìm là không cần thiết chút nào.
Nếu bạn đã biết, nếu Mahavira hay Phật đã làm việc chuẩn bị vất vả và đã tuyên bố rằng atman hiện hữu, cần gì cho bạn phải nỗ lực? Và một khi nó được biết, vấn đề kết thúc ở đó. Thế thì bạn dùng thời gian của bạn vào cái gì đó khác. Cho nên, bạn không nhận biết chút nào về cái gì ở bên trong. Có tối toàn bộ, không cái gì có thể được nhận ra. Tối vô biên – và cái gì ở bên trong? Có chết không? Có tính bất tử hay rỗng đơn giản không? Có ai đó, hay không có ai đó không? Thế thì cuộc truy tìm được sinh ra.
Truy hỏi, ham biết, ngụ ý nơi bạn đứng trong kính sợ và bạn không biết bất kì cái gì. Nơi có các quan niệm thì bạn không khiếp sợ vì bạn đã biết. Truy hỏi hoàn hảo chỉ xảy ra khi các quan niệm hoàn toàn thiếu vắng. Truy hỏi bao giờ cũng sẽ tỉ lệ với định kiến. Cho nên trẻ con có tâm trí truy hỏi nhiều hơn người già.
Trẻ em thường hỏi các câu hỏi mà người già không thể trả lời được. Trẻ em có tâm trí truy hỏi vì chúng không có các khái niệm. Người già hơn đã đánh mất mọi xu hướng truy hỏi vì họ bị đầy ắp với các khái niệm định kiến. Đứa trẻ và ông già sống trong cùng một thế giới: khi mặt trời ló ra buổi sáng, đứa trẻ được tràn đầy với kính sợ – nó đã tới từ đâu? Nó là gì? Khi hoa nở đứa trẻ bị bối rối. Không cái gì làm xúc động ông già, không cái gì gây hứng khởi cho ông ấy. Và khi đứa trẻ hỏi – vì nó phải hỏi – ông già làm nản lòng nó. Lí do là ở chỗ nó vẫn không biết, và không quan tâm – tò mò của nó bị chết.
Đứa trẻ này, đến lượt nó, sẽ cho cùng lời đáp làm nản lòng con trai nó: “Con sẽ biết khi con lớn lên.” Nhưng người lớn biết gì ngoại trừ sự kiện rằng cảm giác tò mò của họ chết? Họ trói buộc bản thân họ bị trĩu nặng với những câu trả lời làm sẵn, nhưng họ không có một câu hỏi để hỏi.
Nếu thân thể già đi với tuổi già điều đó chỉ là tự nhiên nhưng atman trở nên già đi với tuổi già là việc xảy ra rất buồn. Không cái gì đẹp trong thế giới này hơn thanh niên, việc truy tìm như trẻ con về atman bên trong thân thể già. Thế thì cái bên trong là tươi tắn như sương sớm buổi sáng và cuộc sống là phong phú với các kinh nghiệm. Kinh nghiệm đã không tụ lại bên trong như rác, mà các quan niệm cổ cũng không tụ lại như bụi trên cái ngã. Thế thì đứa trẻ long lanh trong mắt người già. Khi một người có những kinh nghiệm sống và sự tò mò của đứa trẻ, người đó là gần chân lí nhất.
Nhưng rắc rối của chúng ta là ở chỗ chúng ta nghĩ nếu chúng ta không biết gì trước, nghĩa của việc tìm kiếm là ở đâu?
Nghĩa của việc tìm kiếm là ở chỗ chúng ta khởi hành để khám phá, để biết cái mà chúng ta đã không biết gì. Chính vì chúng ta không biết gì mà chúng ta khởi hành để biết. Các quan niệm là cái chết của cái ngã. Chúng là cách thoát khỏi chân lí.
Bạn này hỏi: “Chẳng phải việc biết trước là nguyên nhân nền tảng cho tò mò sao?” Nếu có việc biết trước, việc truy hỏi là ngu.
Làm sao hiểu biết có thể tồn tại trước hiểu biết? Khi hiểu biết hiện hữu, nó hiện hữu. Thế thì mọi truy hỏi kết thúc. Nguy hiểm thực là ở chỗ không có hiểu biết thì có thể làm mất tò mò của người ta. Điều này xảy ra khi chúng ta lấy hiểu biết của người khác làm của riêng chúng ta. Điều này chúng ta gọi là hiểu biết nền. Mahavira nói. “Atman là dũng cảm vô hạn, phúc lạc vô hạn, hiểu biết vô hạn.” Và vân vân. Đây là hiểu biết của ông ấy. Nhưng điều này là hiểu biết được vay mượn với chúng ta. Điều đó ngụ ý là gì? Điều đó ngụ ý rằng chúng ta không có hiểu biết, không có kinh nghiệm về atman, nhưng chúng ta chấp nhận lời của Mahavira.
Bao nhiêu người đã chấp nhận lời của Mahavira? Bao nhiêu người trong những người này thực tại đã khởi hành tìm kiếm, như Mahavira đã làm? Nhiều người thế tin vào Phật, nhưng ai tìm kiếm như Phật đã làm? May mắn trời cho của Phật là Phật đã không bắt gặp Phật khác nào đó để cho ông ấy hiểu biết làm sẵn. Tự bản thân ông ấy đã đi tìm và đã thấy. Chân lí được đạt tới khi bản thân chúng ta tìm kiếm. Không rẻ tới mức chúng ta có thể mua chân lí từ người khác. Hiểu biết có thể được đạt tới từ người khác, nhưng Lão Tử bảo chúng ta tránh xa mọi hiểu biết, mọi trí huệ như vậy, cái được vay mượn.
Việc tự biết mình chẳng phải là hoá thân của phúc lạc sao? Nếu nó là vậy, tại sao thầy ngần ngại thừa nhận nó là như vậy? Kinh sách đã nói rõ ràng rằng atman là phúc lạc.
Kinh sách có thể tin atman là hoá thân phúc lạc. Những người đã nói như vậy phải đã biết. Tất cả những người đã biết đều đã biết atman là phúc lạc. Nhưng nguy hiểm bắt đầu khi ngay cả những người không biết cũng tin nó là như vậy. Nguy hiểm này không dành cho những người đã biết mà dành cho những người đã chỉ được nghe. Bạn cũng đã nghe và tin. Bạn không biết phúc lạc là gì mà cũng không biết hoá thân phúc lạc là gì. Bạn cũng chẳng biết atman là gì. Chính là chỉ cái từ “hoá thân phúc lạc” là rất làm hài lòng tâm trí.
Bạn đã biết đau, bạn đã có thoáng nhìn về vui, nhưng bạn không có thoáng nhìn về phúc lạc. Cho nên khi bạn được bảo rằng atman là hoá thân phúc lạc, bạn cảm thấy nó phải là vui, vui thừa thãi, vui kéo dài mãi – cái gì đó như điều đó. Với bạn, anand (phúc lạc) chỉ ngụ ý việc mở rộng của vui – sung sướng cô đặc, không bao giờ kết thúc. Nhưng phúc lạc có liên quan tới vui nhiều như nó có liên quan tới buồn, trong đó nó chẳng liên quan tới cái nào.
Bạn không có tri thức về atman và không có tri thức về phúc lạc, nhưng liên tục nghe làm cho bạn cảm thấy rằng atman là phúc lạc. Bằng đơn thuần nói rằng atman là phúc lạc, không cái gì xảy ra.
Lão Tử không nói rằng atman không phải là phúc lạc. Ông ấy chỉ nói, “Chúng ta sẽ không nói gì về atman. Đi và khám phá cho bản thân ông. Chúng ta chỉ có thể chỉ cho ông cách đi. Chúng ta sẽ không nói ông sẽ thấy cái gì ở đó vì ông là người láu lỉnh và tinh ranh tới mức ông sẽ không làm nỗ lực nào để đi vào trong. Ông sẽ đơn thuần lặp lại, “Atman là phúc lạc, atman là phúc lạc; và thôi miên bản thân ông vào trong việc quên hoàn toàn rằng ông đã không bắt đầu khởi hành đi tìm nó, rằng ông chẳng biết gì về nó.”
Chân lí là gì? Bất kì câu trả lời nào cho điều này chỉ là lời. Bạn nghe lời chứ không phải chân lí. Việc lặp lại thường xuyên làm cho bạn quen với càng ngày càng nhiều điều ngạc nhiên hơn. Lời được biết là nguy hiểm.
Có một phong tục giữa người Do Thái, và đó là một phong tục rất có giá trị — không được lấy danh Thượng đế. Họ gọi Thượng đế là “Jehovah” điều ngụ ý: người không có tên. Điều này chỉ là để cảnh giác chống lại sự kiện rằng việc lặp lại thường xuyên có thể mang tới ảo tưởng về việc biết. Từ này “Jehovah” cũng không để được dùng bằng không nó chắc cũng trở thành cái tên.
Có nhiều khó khăn cho người. Những người hiểu những khó khăn này sẽ không nói cho bạn atman là gì. Họ sẽ chỉ bảo bạn cách bạn có thể đi tới nó. Có nghĩa gì trong việc nói với người mù về việc nhìn? Thảo luận và nghiên cứu các khả năng cho người đó thu lại thị lực của mình là đủ. Nguy hiểm là ở chỗ nếu bạn nói với người mù về ánh sáng, người đó nghe. Tai người đó là tinh thính hơn tai chúng ta. Trí nhớ của người đó cũng sắc bén hơn. Năng lượng bình thường đã được dùng cho mắt được đổi hướng sang tai, sang não; chúng trở nên tích cực hơn. Người đó cũng sẽ nghe và nhớ mọi điều người đó nghe về atman. Việc nhớ của người đó mạnh thêm từng ngày cho tới khi người đó quên người đó mù, rằng người đó đã không thấy ánh sáng, rằng người đó không có tri thức trực tiếp về nó.
Những người có khả năng nhìn sẽ nói, “Ánh sáng giống thế này.” Giống thế, anh bạn của chúng ta nói: “Kinh sách nói.” Mắt của một người có liên quan gì tới người mù? Anh ta không thể cho người mù mượn mắt. Điều người mù cần là mắt riêng của người đó. Nhưng người mù cũng học thuộc lòng bài học của họ. Đó là lí do tại sao Lão Tử từ chối thảo luận về atman. Ông ấy chỉ chỉ ra cho chúng ta cách để cải tiến cái nhìn của chúng ta. Một khi cái nhìn được khôi phục, điều đó là đủ.
Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.21 Tôn giáo là việc là cái ngã riêng của bạn
