Trí huệ sinh, mới có dối trá.
Lục thân chẳng hoà, mới có hiếu từ.
Bạn có nhận ra rất khó cứu một người có giáo dục khỏi việc là bất lương không? Chúng ta có thể nghĩ lỗi nằm trong kiểu giáo dục của chúng ta, nếu chúng ta có kiểu giáo dục đúng, điều này chắc đã không như vậy. Nhưng chúng ta lại sai. Lão Tử nói: “Không thể nào cứu được người có giáo dục khỏi bất lương.” Điều này là vì giáo dục làm cho một người thành láu lỉnh, và láu lỉnh dẫn tới tinh ranh.
Giáo dục cho sức mạnh để hiểu. Nó không mang tới thay đổi của tim. Tim vẫn thế, chỉ việc hiểu thay đổi. Điều tim đã làm khi một người là vô giáo dục, bây giờ nó làm với sức mạnh gấp đôi. Trước đây, người đã bị hạn chế vào chiếc kiếm. Ngày nay, người vẫn thế nhưng chúng ta đã đặt bom nguyên tử vào việc sử dụng của người. Nơi trước đây anh ta có thể giết vài người, ngày nay anh ta có thể quét sạch toàn thành phố. Sự phẫn nộ bên trong anh ta vẫn thế. Nếu anh ta có đá trong tay, anh ta sẽ ném hòn đá đi. Nếu anh ta cầm bom trong tay, anh ta sẽ ném nó nữa.
Một mặt, tri thức tăng lên; và ở mặt kia, bất lương tăng lên.
Niềm tin của Emerson, và người khác nữa như các nhà tư tưởng, là sẽ không có ác một khi toàn thế giới được giáo dục, về căn bản là sai. Ngày nay ngày càng nhiều người đang trở nên có giáo dục. Ở Mĩ mọi người đều có học, nhưng chúng ta thấy rằng mọi ốm bệnh của nó được sinh ra từ giáo dục của nó. Khi người tốt tin vào logic sai và đi theo nó, nó dẫn tới bệnh tật.
Một người bạn tới gặp tôi. Anh ta đã dành cả đời mình giáo dục cho các bộ lạc. Anh ta rất thoả mãn với thành tựu của mình và rất ý thức về việc từ bỏ của mình. Anh ta phơi mình trong nỗi khổ tự tạo của mình. “Tôi đã dành cả cuộc đời tôi cho sự nghiệp này. Tôi có thể kiếm hàng chục vạn. Tôi đã vào tù – tôi có thể đã có chỗ trong văn phòng chính phủ. Nhưng tôi đã từ bỏ mọi thứ và cống hiến cả đời tôi để giáo dục các bộ lạc chậm tiến.”
Tôi nói với anh ta, “Bạn đang giáo dục họ, nhưng bạn có kiểm tra lại xem điều đó đã cho trẻ con bộ lạc cái gì? Bạn sẽ chết mà nghĩ bạn đang làm điều lớn lao, nhưng dành một ý nghĩ cho điều này nữa – giáo dục đã làm gì cho những đứa trẻ này?”
Mĩ là nước có giáo dục nhiều nhất trên thế giới ngày nay. Chúng ta coi giáo dục như người chăm nom cho tương lai của người. Nếu mọi nước do vậy được giáo dục, họ sẽ trở thành giống Mĩ. Nhưng cái gì đã là kết quả của mọi giáo dục này? Tội ác đã không giảm đi, nó đã tăng lên. Bất lương lan tràn. Mọi điều này đã tăng lên theo cùng tỉ lệ như giáo dục. Điều này ngụ ý cái gì? Điều này ngụ ý chúng ta không thể quét sạch cái đối lập. Bằng việc tăng cái này lên, chúng ta không thể làm giảm cái khác, càng ít phá huỷ nó hơn. Chúng ta chỉ có thể làm tăng nó. Chúng ta hãy xem điều này từ khía cạnh khác.
Ngày nay chúng ta có vô số cách chữa mọi loại bệnh – nhưng bệnh đã không ít đi. Thay vì thế, chúng đã tăng lên. Sự kiện là ở chỗ nhiều bệnh mới đã đi vào hiện hữu mà chưa bao giờ có trước đây. Chúng ta đã không chỉ phát minh ra thuốc mới; chúng ta cũng đã phát minh ra bệnh mới. Lí do gì đằng sau điều này? Nếu thuốc đã tăng lên, bệnh đáng ra phải ít đi – đây là logic đơn giản. Nhưng việc chữa đã tăng lên và bệnh cũng tăng lên! Điều này thành vấn đề làm sao! Luật nào đang làm việc?
Thực tại, khi cách chữa bệnh tăng lên; khả năng mắc bệnh của bạn cũng tăng lên. Bạn không còn tin vào bản thân bạn; bạn tin vào thuốc. Bạn không phải tranh đấu với bệnh; việc đó bây giờ được trao cho thuốc. Bây giờ bạn ở bên ngoài việc tranh đấu. Khi thuốc tranh đấu với bệnh, sức kháng bệnh của bạn, năng lực của thân thể bạn để tranh đấu với bệnh, giảm đi. Khi bạn phụ thuộc ngày càng nhiều vào thuốc, việc kháng bệnh ngày càng kém đi và bạn ngày càng yếu hơn.
Và khi bạn ngày càng yếu đi, bạn cần ngày càng nhiều thuốc hơn. Điều này chỉ ra thân thể bạn đã trở nên yếu thế nào. Thế thì bạn thấy bản thân bạn bị đương đầu với bệnh rất nặng. Và điều này cứ tiếp diễn – tranh đấu giữa bệnh và thuốc. Bạn thậm chí không phải là một phần của tranh đấu này. Bạn đơn thuần là chiến trường, là Kurukshetra nơi Pandavas và Kauravas đánh nhau. Vi chất của thuốc đánh nhau với vi khuẩn của bệnh. Trong quá trình này bạn bị xô đẩy. Tuy nhiên thuốc giữ cho bạn đủ sống để cho cuộc chiến tiếp diễn. Có mọi liên nối giữa việc chữa và bệnh ở đâu đó.
Nếu chúng ta hỏi Lão Tử về điều này, ông ấy sẽ nói rằng bệnh sẽ kết thúc vào ngày thuốc không còn nữa. Tuy nhiên điều này ở bên ngoài việc hiểu của chúng ta. Logic của ông ấy là thế này: khi không có thuốc, bản thân bạn sẽ phải tranh đấu với bệnh. Thế thì sức mạnh kháng bệnh của bạn chỉ có thể phát triển. Tin vào thuốc không phải là tin vào bản thân người ta. Chúng ta có thể tự mình thấy cách chúng ta đã chất đầy thuốc vào bản thân mình.
Nhưng không có đường ra vì toàn thể logic của chúng ta dựa trên loại tư duy này. Điều đó giống thế này: Chúng ta càng cố bảo vệ bản thân chúng ta, chúng ta càng trở nên bất an ninh hơn. Chúng ta càng trở nên bất an ninh, chúng ta càng nghĩ nhiều hơn. Nghĩa của điều khó hiểu này là gì? Nó ngụ ý rằng chúng ta càng được bảo vệ, chúng ta càng trở nên yếu hơn.
Bạn đang ngồi trong phòng điều hoà. Bạn quan sát một công nhân bước đi trong ánh mặt trời nóng bỏng và bạn tự nhủ mình. “Người đáng thương kia, bước đi trong cái nóng thế này!” Nhưng bạn không biết rằng người này có thể quên lãng toàn bộ về nóng. Ý nghĩ này về mặt trời thiêu đốt là của bạn. Nhưng đúng là nếu bạn mà bước ra ngoài để bước đi cùng người đó, cái nóng chắc sẽ là quá sức chịu đựng với bạn.
Nóng không phải là như nhau với mọi người trên đường. Mỗi người trải nghiệm nó một cách khác nhau. Nóng không phụ thuộc toàn bộ vào mặt trời; nó cũng phụ thuộc vào bạn. Khi bạn bước đi trên đường và mồ hôi túa ra, bạn nghĩ, “Người công nhân đáng thương!” nhưng người công nhân gần như vô nhận biết về điều đó, vì để trải nghiệm nóng của mặt trời, điều hoà không khí là tuyệt đối cần thiết.
Càng có nhiều điều hoà không khí, nhiệt sẽ càng nóng hơn. Chúng ta càng cố làm lạnh thế giới, thế giới sẽ càng trở nên nóng hơn. Điều này dường như mâu thuẫn, nhưng có kết nối vững chắc. Bạn càng cố ở trong phòng điều hoà không khí, sức mạnh tranh đấu với nóng của bạn sẽ càng trở nên kém hơn.
Chính điều tự nhiên là năng lượng mà chúng ta không đưa vào sử dụng sẽ ít dần đi. Máy điều hoà không khí làm cho bạn điều mà thông thường thân thể bạn đáng phải làm – tranh đấu với nóng. Do đó, khi bạn đột nhiên đứng dưới mặt trời, thân thể bạn trở nên không được bảo vệ toàn bộ. Nó sẽ không có khả năng chịu đựng nóng và bạn sẽ cảm thấy rất không thoải mái. Sự không thoải mái này không tồn tại trước khi việc điều hoà không khí được khám phá ra.
Bây giờ Nga đang nghĩ về làm điều hoà không khí cho toàn thể lục địa. Nhưng khi mọi người được sinh ra và chết đi ở chỗ có điều hoà không khí toàn thể nhân loại sẽ phải chui xuống ngầm dưới đất. Có những câu chuyện về các nền văn hoá đạt tới đỉnh. Nhưng những nền văn hoá đã đạt tới chiều cao tối thượng chung cuộc phải đi xuống ở ngầm dưới đất.
Có một cái hồ mang tên Titicaca ở Nam Mĩ. Nó là cái hồ duy nhất. Nó đã gây bối rối cho các nhà khoa học, vì sông đổ vào hồ này. Hàng triệu lít nước hàng ngày đổ vào trong hồ này và không có cách nào cho nó chảy ra khỏi hồ. Vậy mà nước trong hồ không dâng lên một li. Các nhà khoa học bị lúng túng. Tất cả nước này đi đâu? Chúng đã được quan sát trong hàng trăm năm. Người ta nói rằng bên dưới hồ có tàn tích của nền văn minh cổ của người Incas. Hồ này được cho rằng đã là kho dự trữ của nó. Người Incas không còn nữa, nhưng cách bố trí của họ để lấy nước vẫn còn lại. Bây giờ các nhà khoa học nghĩ rằng đây đã là nguồn cấp nước cho những người sống bên dưới hồ. Nhiều nghiên cứu đang được tiến hành để khám phá ra nền văn minh bị mất này.
Xã hội càng trở nên được phát triển, nó càng đi xuống ngầm dưới đất. Ở Mohenjodaro và Harappa, có bẩy tầng thành phố. Thành phố này không thể tồn tại được vì động đất hay bất kì thảm hoạ nào. Khả năng lớn nhất là ở chỗ nền văn minh đã chuyển xuống ngầm dưới đất. Các nhà khoa học và nhà khảo cổ đã xác nhận cho tới giờ rằng Mohenjodaro đã được xây dựng bẩy lần và bị phá huỷ bẩy lần bởi động đất. Điều này dường như không đáng tin lắm: rằng bẩy nền văn hoá có thể đã biến mất ở cùng một chỗ, cái nọ sau cái kia. Điều dường như đáng tin hơn là ở chỗ nền văn hoá đó phải đã đạt tới đỉnh nơi tuyệt đối cần thiết phải đi ngày càng sâu hơn ngầm dưới đất. Người phải đã mất mọi sức mạnh của mình để chịu đựng các điều kiện trên mặt đất.
Nếu điều hoà không khí lan rộng khắp thế giới, người sẽ phải đi vào ngầm dưới đất trong vòng hai trăm năm tới. Thế thì, bước ra bên ngoài trong ánh sáng của mặt trời có thể là tai hoạ. Đứa trẻ được sinh ra và nuôi lớn lên ở chỗ có điều hoà không khí sẽ không có khả năng chịu đựng được ánh sáng mặt trời. Mãi cho tới nay mặt trời đã là cội nguồn của sự sống; ngày mai, nó có thể là nguyên nhân của chết.
Chúng ta càng tăng các phương tiện bảo vệ của mình, chúng ta càng trở nên mong manh hơn. Chúng ta càng thu xếp để bảo vệ bản thân chúng ta, chúng ta càng phơi bản thân chúng ta cho nguy hiểm nhiều hơn.
Lão Tử nói: Trí huệ sinh, mới có dối trá. Cho nên bất lương và lừa dối cũng vậy. Mọi người trở nên giả dối và lừa bịp. Rất khó cho người có học là lương thiện.
Trong hoàn cảnh này, câu chuyện Kinh Thánh về Adam và Eve là đáng để ý. Đây là câu chuyện có giá trị nhất trong Kinh Thánh.
Thượng đế đuổi Adam và Eve ra khỏi Vườn Eden vì họ đã ăn trái cấm. Ông ấy đã bảo họ rằng họ có thể tận hưởng quả của mọi cây trừ một cây, cây tri thức.
Có lẽ đó đã là việc cấm đoán đã làm cho Adam và Eve hăm hở hơn để nếm quả này. Có lẽ chính vì điều này mà Satan đã thành công trong thuyết phục Eve nếm nó. Rắn giải thích cho cô ấy rằng quả này bị cấm vì bất kì ai ăn nó đều trở thành giống Thượng đế. Tri thức làm ra Thượng đế từ người. Do đó Thượng đế đã cấm quả này.
Eve bị thuyết phục về tính đích thực của câu chuyện này. Dốt là chết và tri thức là sự xuất sắc cao nhất. Nếu Thượng đế đã cấm quả này, điều là rõ ràng rằng ông ấy không muốn họ trở thành giống ông ấy.
Nếu bạn muốn thuyết phục một người cách an toàn nhất là thuyết phục vợ anh ta. Nếu cô ấy bị thuyết phục, anh ta nhất định đồng ý. Cho nên Satan đã thuyết phục Eve bằng việc đánh thức ghen tị của cô ấy – dễ làm cho đàn bà ghen. Adam đã cố hết sức để ngăn cản Eve, nhưng không ăn thua gì. Cô ấy đã quyết định nếm quả này. Khi sự việc trở thành chọn lựa giữa Thượng đế và vợ mình, Adam đáng thương phải cúi mình trước ý chí của Eve. Anh ta càng cố khuyên can cô ấy, cô ấy càng trở nên ương bướng hơn vì hấp dẫn tăng lên. Chung cuộc quả này đã được nếm. Ngay khi họ đã nếm nó, họ bị tống ra khỏi Vườn.
Tri thức trở thành nguyên nhân cho sa ngã của người – theo Kinh Thánh. Điều này gây bối rối, nhưng nó phù hợp với phát biểu của Lão Tử. Ông ấy cũng nói rằng từ khi người thu nhận tri thức, người đã đi lạc lối. Người không thể quay lại Vườn Eden cho tới khi người thoát hoàn toàn khỏi tri thức. Chỉ thế thì các cánh cửa của cõi trời mở ra cho người.
Điều thú vị cần lưu ý là khi tri thức biến mất, dốt cũng biến mất. Sự kiện là, dốt được trải nghiệm chỉ vì tri thức. Do đó, khi tri thức tăng lên, chúng ta trở nên ngày càng nhận biết về dốt.
Nếu bạn là người duy nhất trên thế gian này, bạn sẽ là cái gì – khôn hay dốt? Bạn sẽ chỉ hiện hữu, sẽ không có so sánh. Làm sao bạn sẽ phán đoán liệu bạn là đạo đức, hay vô đạo đức, liệu bạn là tốt hay xấu? Sẽ không có tiêu chí để xét theo.
Lão Tử nói: trạng thái của Đạo là trạng thái đơn giản – nó là dường như từng người là người duy nhất trên thế giới. Không có cách nào để đo. Không có tốt không có xấu; không ai là khôn và không ai là dốt, không có sadhu hay phi sadhu. Chỉ có việc hiện hữu.
Có một sự vụ thú vị khác trong câu chuyện Kinh Thánh này. Ngay khi Eve nếm quả này cô ấy bứt vài cái lá che phủ cho bản thân cô ấy. Trước lúc đó cô ấy đã trần truồng, nhưng với tri thức, nhận biết về tội lỗi bước vào. Tri thức phá vỡ việc chấp nhận đầy đủ về thân thể – cái gì đó trong nó trở thành không chấp nhận được. Mãi tới lúc đó Adam và Eve đã hồn nhiên như trẻ con. Với tri thức tội bước vào.
Lão Tử nói: “Hồn nhiên không thể được đạt tới chừng nào mọi tri thức chưa bị trừ tiệt.” Do đó, chỉ người có năng lực từ bỏ mọi tri thức mới đạt tới tri thức tối cao. Thế thì người đó trở thành đơn giản, hồn hiên. Jesus đã nói, “Chỉ những người trở thành hồn nhiên giống như trẻ con có thể vào vương quốc của ta.” Điều không được biết là liệu trẻ con có thực sự là hồn nhiên không. Theo Freud, chúng không hồn nhiên. Ông ấy tin rằng mọi khiếm khuyết và thiếu sót đã có đó; chúng chỉ chờ cơ hội cho tới khi chúng biểu lộ. Đứa trẻ cần sự giúp đỡ của bạn lúc khởi đầu, nó cần chăm sóc của bạn để giáo dục nó, để làm cho nó mạnh mẽ trong thân thể. Ngay khi nó mạnh khoẻ theo cách riêng của nó, mọi bệnh sẽ bắt đầu biểu lộ trong nó. Nhưng Jesus ngụ ý khác. Ông ấy nói nơi không có nhận biết, chỉ là vô nhận biết – chính dốt là hồn nhiên.
Cho nên ngay khi Adam và Eve trở nên ý thức về bản thân họ, họ che phủ thân thể họ; họ đã bị tràn đầy với xấu hổ hướng tới bản thân họ. Bị xấu hổ về cái gì đó là ý thức tới nhược điểm của nó, khiếm khuyết của nó. Cảm giác xấu hổ được coi là đức hạnh trong đàn bà nhưng cả xấu hổ lẫn nhút nhát đều không là đức hạnh vì cả hai truyền đạt nghĩa rằng người này đã trở nên nhận biết về khiếm khuyết của mình. Cô ấy cảm thấy cái gì đó là sai ở đâu đó và làm sao cảm giác này là có thể mà không có kinh nghiệm trước nào đó? Bằng cách nào đó, cảm giác về sai đã đi vào bên trong cô ấy.
Trong nhân cách hồn nhiên, không có nhút nhát, không có xấu hổ. Cũng không có không xấu hổ, vì điều này yêu cầu tri thức khởi đầu về xấu hổ. Không xấu hổ là sản phẩm phụ. Khi một người trở nên ý thức về xấu hổ và thế rồi ném xấu hổ theo gió, người đó trở thành không xấu hổ.
Lão Tử nói rằng có trạng thái của sự tồn tại trong đó hiểu biết về cái đối lập (nhị nguyên) là thiếu vắng; nơi không có phân biệt giữa đen và trắng, sáng và tối. Và chính trạng thái này là tôn giáo tối cao. Mọi điều tới bên dưới trạng thái này là sút giảm của tôn giáo.
Khổng Tử tới gặp Lão Tử. Ông ta là chính sự đối lập với Lão Tử. Ông ta là tương đương với Aristotle, ông ta giống chúng ta. Ông ta đã xây dựng các qui tắc và qui chế cho mọi thứ trong cuộc sống. Mọi li của cuộc sống ông ta đều cố chỉ đạo: cách người ta nên ngồi, cách người ta nên đứng, cách người ta nên nói, cách người ta nên sống và cách người ta nên chết. Không có người nào yêu qui tắc lớn hơn ông ta.
Khi Khổng Tử nằm chết, một trong các đệ tử của ông ta tới gặp ông ta. Người này đã không tới trong một thời gian dài, và điều Khổng Tử nóng lòng biết từ người này chỉ là thế này: liệu người này có bước xuống xe bò kéo khi người đó đi vào làng không! Khi đệ tử này đảm bảo với ông ta là anh ta đã xuống xe và đi bộ một khoảng cách, Khổng Tử nói, “Bây giờ ta có thể chết trong an bình.” Khổng Tử là người có kỉ luật thế.
Lão Tử chính là đối lập của ông ta. Ông ấy nằm ra không theo qui tắc nào, không theo qui định nào, vì mọi kỉ luật với ông ấy là nguyên nhân của sa sút. Khi một luật được đưa vào, nó ngụ ý bệnh đã bắt đầu: và bây giờ chúng ta phải buộc bản thân chúng ta vào các qui định để bằng cách nào đó cứu bản thân chúng ta, bằng cách nào đó đi tiếp.
Khổng Tử đã hỏi Lão Tử. “Tôi muốn làm cho mọi người là tốt. Xin thầy cho lời khuyên tôi phải làm gì.”
Lão Tử đáp, “Đừng cố làm mọi người là tốt. Ông sẽ chỉ thành công trong việc làm họ thành xấu. Đóng góp của ông cho nhân loại chỉ nên là thế này: rằng ông không cố làm cho họ là tốt.”
Khổng Tử hoang mang vì điều này không diễn đạt hợp theo suy nghĩ của ông ta. “Làm sao điều này có thể được?” Ông ta chất vấn. “Thế thì sẽ chẳng có gì ngoài vô trật tự và hỗn loạn!”
Lão Tử đáp, “Vô trật tự tới với nỗ lực đem vào trật tự.”
Khổng Tử nói, “Mọi người sẽ trở nên vô trách nhiệm.”
Lão Tử đáp, “Khi không có qui định lộn xộn ở đâu? Mọi người sẽ tự nhiên trong hành vi của họ.” Luật pháp mang vào vô trật tự vì mọi luật là đối lập với tính tự nhiên của người. Do đó chúng thôi thúc người trở nên vô trật tự. Tính tự nhiên là một luồng; luật pháp giống như đập nước.
Khi tôi còn nhỏ, một thầy giáo trong trường tôi chết. Chúng tôi toàn trẻ nhỏ thường trêu thầy và gọi thầy là ‘Bhole Shankar’. Thầy là ngưởi rất chân thật, và vì sự đơn giản và không cảnh giác của thầy mà mọi người làm phiền thầy. Mọi đứa trẻ tụ tập lại để nói lời chào vĩnh biệt cuối cùng với thầy. Tất cả chúng tôi đều yêu thầy, hơn thế nữa vì chúng tôi có thể làm phiền thầy.
Tôi đã đứng gần thân thể thầy nhất, thì đột nhiên vợ thầy chạy ra khỏi nhà ngã lên thầy vừa khóc, “Ôi, Bhole Shankar của em!” Tôi buột cười vì đó là cách chúng tôi trêu thầy. Tôi đã không mong đợi vợ thầy nói như thế này. Sự trang nghiêm của cơ hội này bị đập tan. Mọi đứa trẻ bắt đầu cười, vì mọi người đã biết chuyện đùa này.
Nhưng đây là giới hạn. Chúng tôi bị rầy la tồi tệ, không chỉ bởi các thầy cô giáo mà còn bởi bố mẹ chúng tôi, người đã bảo chúng tôi họ lấy làm xấu hổ về cách cư xử không đúng như thế. Chúng tôi không có cảm giác về khuôn phép. Khi chúng tôi giải thích lí do cho việc cười đùa của chúng tôi, họ hiểu, nhưng ngay cả thế chúng tôi vẫn phải kiểm soát bản thân chúng tôi, cân nhắc tới hoàn cảnh này. Nhưng lí do thực tại của việc bột phát này đã là chính nỗ lực kìm nén tiếng cười. Điều đó trở thành nhiệm vụ không thể được tới mức sự bùng phát bùng nổ. Bà vợ đáng thương cũng dừng khóc và bị hoang mang và lo nghĩ nhiều.
Luật pháp bao giờ cũng trao sức mạnh cho cái đối lập. Ở đây điều đơn giản là tiếng cười ở ngoài vấn đề, nhưng cuộc sống không tuân theo luật nào. Tiếng cười trào lên từ bên trong và nó là rất tự nhiên; không có ác ý. Nhưng sự thích đáng đã cản trở nó. Sự đúng mực tạo ra con đê. Sự đúng mực dựng lên con đê trên cái đã là dòng chảy tự nhiên. Khi con đê vỡ ra, hỗn loạn xảy ra sau đó. Khi cái đập vỡ ra, phá huỷ khủng khiếp theo sau.
Nhưng những người nhìn cuộc sống qua ngôn ngữ của điều chỉnh – như Khổng Tử – sẽ xác nhận rằng không có luật pháp mọi thứ sẽ trong hỗn độn. Không ai sẽ nghe bất kì ai, thần dân sẽ không nghe theo vua, con trai sẽ không nghe theo bố, vợ sẽ không nghe chồng, người hầu sẽ không nghe chủ của họ.
Lão Tử nói: “Ông càng cố làm cho con trai nghe theo bố chúng, chúng sẽ càng đi ngược lại bố chúng.” Và Lão Tử đã chứng tỏ là đúng. Trong năm nghìn năm qua, người đã cố làm cho con trai vâng theo bố và kết quả là vực thẳm tăng lên giữa hai bố con. Cùng điều này là trường hợp giữa người hầu và ông chủ, giữa vua và người của ông ta. Người hầu không coi người chủ là tối cao của mình mà là đối tác bình đẳng của mình. Mọi người đã xoay quanh bản tính của họ và thể chế quân chủ giờ đã không còn nữa.
Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.18 Sinh ra các học thuyết từ suy giảm của Đạo
