Cách nghiên cứu được tiến hành trong thời đại của chúng ta là cách thức của tâm trí nam. Lão Tử đã nói rằng khoa học của tâm trí nữ là khác với khoa học của tâm trí nam.
Khoa học đã phát triển ở phương Tây ngày nay là khám phá của tâm trí nam. Logic, mổ xẻ, phân tích – đây là phương pháp của nó. Đập mọi thứ, xé nó ra thành các mảnh, suy luận, tranh cãi, suy tư về nó và tính toán kết quả. Nhưng những kết quả này cần được thay đổi mỗi ngày trôi qua. Nếu một công thức khoa học vẫn còn tốt trong sáu tháng, nó đã kéo dài đủ lâu rồi! Trong thời gian sáu tháng phương tiện và máy móc được phát minh ra, cái đem lại logic tươi mới và các tính toán tinh vi hơn cho nên các tính toán cũ chứng tỏ là sai. Các nhà khoa học của phương Tây nói rằng gần như trở nên không thể nào viết được cuốn sách có phạm vi rộng về bất kì chủ đề nào vì trước khi bạn kết thúc, các lí thuyết bạn đã làm theo, được chứng minh là sai! Bây giờ chỉ những sách nhỏ được viết về khoa học và dần dần, những cuốn sách này nữa sẽ dừng lại. Bây giờ đơn thuần có các tạp chí và tạp chí định kì về khoa học trong đó các nhà khoa học cho báo cáo của mình trước khi chúng bị chứng minh là sai!
Những kết quả được đạt tới, những kết luận được rút ra bởi trực giác không yêu cầu thay đổi cho dù trong hàng nghìn năm. Chân lí như được nói bởi Upanishads vẫn còn đúng ngay cả ngày nay; và dường như không có bất kì khả năng nào cho thay đổi của chúng trong tương lai nữa. Cái gì có đó trong những chân lí này mà làm cho chúng là đích thực thế?
Điều Lão Tử nói sẽ vẫn còn đúng ngay cả trong tương lai xa xôi nhất. Sẽ không có thay đổi nào được cần tới trong những phát biểu của ông ấy. Đạo – phương pháp của việc đạt tới của Lão Tử phải đã là cái gì đó rất khác. Điều chúng ta đạt tới, bị làm thành vô hiệu ngày hôm sau. Khi mọi khám phá của con người còn được dựa trên logic, chúng không phải là kinh nghiệm thực tại. Chúng đơn thuần là ước đoán tâm trí. Do đó chúng cần được thay đổi mọi ngày, vì ước đoán không bao giờ là đúng. Đây là lí do tại sao nhà khoa học bao giờ cũng nói rằng điều ông ấy nói là ‘đúng xấp xỉ.’
Khi bạn đọc suốt qua Upanishads, bạn thấy bản thân bạn trong một thế giới khác hoàn toàn. Đọc Lão Tử – ông ấy không cho giải thích, không cho suy luận. Ông ấy nói, “Thần hang không chết, bao giờ cũng là vậy.” Đây là phát biểu đơn thuần không có bất kì suy luận nào. Ông ấy không đi giải thích tại sao thần hang không bao giờ chết. Ông ấy làm ra một phát biểu trần trụi và trực tiếp – Thần hang không bao giờ chết, thần còn như vậy mãi mãi. Không có tại sao và về lí do cho các phát biểu của ông. Lão Tử nói rằng chỉ những người đã không trải nghiệm bản thân mình mới cần nhân chứng và suy luận để chứng minh cho phát biểu của mình.
Chuyện kể rằng có lần Mulla Nasruddin được thấy trong phiên toà luật pháp. Anh ta kiện với quan toà rằng vợ anh ta đã tấn công anh ta bằng chiếc kéo và cắt mặt anh ta dường như đó là một mảnh vải! Quan toà phân vân, “Nhưng Mullah,” ông ta bảo Nasruddin, “Không có một dấu hiệu nào trên mặt anh để chứng minh cho lời kiện của anh! Khi nào chuyện đó đã xảy ra?” “Nó đã xảy ra đêm qua,” Mulla nói. “Nhưng làm sao điều đó có thể vậy được? Không có dấu hiệu nào trên mặt anh,” quan toà nói.
“Nhu cầu về điều đó có đâu?” Nasruddin nói. “Tôi có thể tạo ra cả tá nhân chứng xác minh cho tôi.”
Thực ra, chúng ta chỉ tìm nhân chứng khi chúng ta không có đức tín vào bản thân chúng. Khi chúng ta có đủ tự tin vào bản thân chúng ta, không cần nhân chứng hay bất kì bằng chứng nào.
Các rishi của Upanishads nói, “Brahma hiện hữu.” Họ không cho bằng chứng nào để hỗ trợ cho phát biểu của họ. Họ không giải thích làm sao họ đã đạt tới kết luận này. Họ thậm chí không nói rằng những người bất đồng là sai. Đó là phát biểu trực tiếp. Nếu bạn hỏi họ về bằng chứng, họ sẽ nói: “Không có bằng chứng. Lời của chúng tôi là đủ. Nếu ông muốn biết, chúng tôi có thể chỉ cho ông cách thức; nhưng chúng tôi sẽ không cho bất kì lí do nào cho phát biểu của chúng tôi.” Lão Tử nữa cũng nói cùng điều này. Ông ấy cũng nói, “Thần hang bao giờ cũng hiện hữu – vẫn còn đó và ông cũng có thể trải nghiệm điều đó. Ta có thể chỉ cho ông cách để xuyên thấu vào trong Huyền nữ nhưng ta sẽ không cho nằng chứng nào về sự tồn tại của nó vì ta biết chắc chắn rằng nó hiện hữu.”
Những người đã đưa ra bằng chứng thiên về sự tồn tại của Thượng đế, không có ý tưởng chút nào về sự tồn tại của ngài. Những người như vậy chỉ làm mạnh thêm cho bên vô thần – vì suy diễn bao giờ cũng có thể bị tranh cãi và không có suy diễn nào mà không thể bị làm sai đi.
Nasruddin đã khuyên con trai anh ta, người mới vào đại học, “Làm thành vấn đề để học logic đi,” anh ta nói với con. “Nó sẽ chứng tỏ là rất hữu dụng trong nghệ thuật là bất lương. Nếu con muốn là bất lương, con phải là chuyên gia logic. Trung thực không yêu cầu logic.”
“Bố giải thích thêm đi,” con trai anh ta yêu cầu, “Vì con không có tri thức về logic.” Thế là Nasruddin bắt đầu giải thích: “Giả sử hai người đi ra từ ống khói nhà tranh. Quần áo của người này trắng lấp lánh trong khi quần áo của người kia là đen với nhọ ống khói. Người nào trong số họ sẽ đi tắm trước?”
“Đương nhiên là người bẩn,” cậu con trai đáp. “Sai,” Nasruddin nói.” Và đây là lí do tại sao bố nói, con phải có tri thức về logic. Người bẩn không thể thấy được cái bẩn. Anh ta chỉ có thể thấy quần áo trắng của bạn anh ta. Và anh ta nghĩ: ‘Nếu quần áo của anh ta sạch thì quần áo của mình nữa cũng phải sạch.'” “Thôi đủ rồi!” con trai anh ta nói, “Con hiểu rõ ràng. Người trong quần áo trắng sẽ tắm trước vì anh ta sẽ thấy vết nhọ trên quần áo của bạn anh ta. Anh ta nữa sẽ nghĩ rằng vì cả hai đã chui ra từ cùng một ống khói và quần áo của bạn anh ta bẩn, anh ta nữa cũng phải bẩn!”
“Sai!” Nasruddin nói. “Ngớ ngẩn!” con trai anh ta kêu lên, “Thế thì câu trả lời là gì?” Nasruddin đáp. “Nó là sai vì người biết logic sẽ nói ‘Nếu cả hai chui ra từ cùng ống khói, làm sao một người có thể sạch và người kia bẩn được?'” Anh ta nói thêm cho con trai mình, “Nếu con muốn chứng minh mọi người sai trên thế giới này, con phải biết logic.”
Bạn không bao giờ có thể chứng minh được bất kì cái gì là đúng bằng logic nhưng logic có thể chứng minh bất kì cái gì cũng là sai. Để chứng minh sự đích thực của một thứ, kinh nghiệm là điều bắt buộc. Và nếu chúng ta không thể chứng minh được sự đích thực của một thứ bằng logic, sự không đích thực của thứ đó cũng phải là rất dễ dàng qua logic vì chúng ta không biết đích thực là gì. Thế thì nó trở thành chỉ là trò chơi để chứng minh quan điểm của người ta.
Toàn thể tri thức của phương Tây dựa trên logic. Aristotle là cha đẻ của tri thức này. Nơi có logic, bao giờ cũng có phân tích: đập phá mọi thứ thành các mảnh mẩu. Cho nên phương pháp của khoa học ở phương Tây là phân tích. Do vậy họ đạt tới nguyên tử – bằng việc đập và phá vật chất.
Ý thức nữ có tính tổng hợp. Nó không đập phá các thứ, thay vì thế nó nối chúng lại. Nó nói, “Cứ thêm vào, cứ thêm vào, và khi không cái gì còn lại để được thêm vào, thế thì cái tới trong tay là chân lí.” Do đó, các kết luận được rút ra bởi ý thức nữ là tất cả mọi thứ liên quan tới sự mở rộng bao la và không tới nguyên tử. Chính ý thức này đã tuyên bố: “Toàn thể vũ trụ là một mình Brahma.” Nhà khoa học tuyên bố vũ trụ là sự kết hợp của các nguyên tử; và từng nguyên tử là một thực thể bởi bản thân nó. Các nguyên tử không được nối lại; chúng không thể thế được. Giữa từng nguyên tử trong chúng là vực thẳm. Chúng giống như các hạt cát được giữ cùng nhau. Điều này là vậy sao? Hay chính phương pháp diễn dịch của họ đem họ tới kết luận này – rằng vũ trụ là đống các nguyên tử?
Tuy nhiên người làm việc theo phương pháp ý thức nữ nói: “Vũ trụ là một.” Không có vấn đề về nhiều; thậm chí không có hai. Vũ trụ là một sự mở rộng bao la. Người liên tục thêm vào và khi không có gì thêm nữa để thêm vào mọi vũ trụ được tích luỹ lại trong một.
Đàn bà bao giờ cũng nghĩ dưới dạng tích tụ. Đàn ông bao giờ cũng nghĩ dưới dạng phá ra, chia tách. Đây là tâm trí nam. Tâm trí nữ thì tích tụ và chỗ tích tụ thành 50, kết luận được đạt tới là khác với kết luận được đạt tới bởi phân tích.
Nhớ, nơi có phân tích, sẽ có kết tập. Đây là lí do tại sao các nhà khoa học phương Tây nói dưới dạng chinh phục tự nhiên. Nhưng ở phương Đông, những người như Lão Tử nói: “Chúng ta là con của tự nhiên. Làm sao chúng ta có thể chinh phục tự nhiên được? Đó sẽ là hành động đàn áp xúc phạm mẹ của chúng ta!”
Lão Tử nói: “Nói chinh phục tự nhiên là ngu xuẩn. Điều đủ là chúng ta hợp tác với tự nhiên và nhận được ân huệ của tự nhiên. Nếu chúng ta nhận được lòng nhân từ của tự nhiên, điều đó là quá đủ.”
Phương Tây đã bắt đầu nghĩ lại theo đường hướng của Lão Tử. Một cuốn sách tuyệt vời đã được viết về sau ở phương Tây; và chính cuốn đầu tiên thuộc loại của nó là: “Đạo của khoa học.” Bây giờ có những tranh luận nóng bỏng diễn ra ở phương Tây thiên về gạt bỏ khoa học Aristotle và xây dựng một khoa học mới dựa trên các lí thuyết của Lão Tử. Tại sao?
Vì ngôn ngữ này về thắng và thua là ngôn ngữ của bạo hành, và tự nhiên không thể bị chinh phục. Đó là nỗ lực ngu xuẩn và không thể được cũng như ngón tay nhỏ bé của tôi định bắt đầu chinh phục toàn thân tôi. Nó không bao giờ có thể thắng. Nó có thể gây đau khổ cho bản thân nó không kết thúc: và người do vậy đã gây đau khổ cho bản thân mình trong cố gắng vô ích để chinh phục tự nhiên. Khi người nghĩ về tự nhiên dưới dạng lấn tới, thế thì điều cần tự hỏi là người có nghĩ về người khác theo cùng cách không? Đánh nhau và bành trướng trở thành cách nghĩ của họ.
Theo Lão Tử, chiến tranh không thể chấm dứt trên thế giới này chừng nào và cho tới khi ý thức nữ trở thành mạnh mẽ. Điều này dường như là đúng theo cách nào đó. Đàn bà không bao giờ thiết tha với chiến tranh. Họ không bao giờ là vậy. Nếu đàn ông bằng cách nào đó tán tỉnh để cô ấy chấp nhận chiến tranh và thậm chí làm cho cô ấy đính dấu hiệu chiến thắng lên trán anh ta khi anh ta bắt đầu tham chiến, cô ấy không bao giờ làm điều này một cách toàn tâm. Đã không có gì ngoài nước mắt đằng sau nụ cười của cô ấy dù bất kì ai thắng hay thua, đàn bà bao giờ cũng thua. Hoặc cô ấy đã mất con trai hay chồng hay người yêu của cô ấy. Ai đó hay người khác của cô ấy bao giờ cũng chết và do vậy cô ấy không bao giờ hưởng lợi bởi chiến tranh.
Không thành vấn đề chiến tranh mang lại cho đàn ông kích động gì, trong cuộc sống của đàn bà nó giáng một cú định mệnh.
Đàn bà bao giờ cũng chống lại chiến tranh; nhưng đàn bà không có tiếng nói trong xã hội, ý thức nữ không nắm quyền lực. Cho nên chừng nào ý thức nam còn giữ thống trị trên thế giới, chiến tranh không thể bị trừ tiệt. Cấu trúc tâm trí đàn ông là tới mức cho dù anh ta muốn bắt đầu phong trào chống chiến tranh, cách thức của anh ta đi vào nó sẽ là giống chiến tranh. Khi anh ta bắt đầu phong trào thiết lập hoà bình, nắm đấm của anh ta được siết lại và anh ta mang chiếc gậy! Phương pháp của anh ta sẽ là phương pháp của chiến sĩ.
Có vụ kiện khác lại liên quan tới Mulla Nasruddin. Hai người đàn ông tới đánh nhau. Họ ném ghế vào nhau và làm vỡ đầu nhau. Nasruddin đã hiện diện. Anh ta được triệu tới như nhân chứng trong vụ kiện này. Quan toàn hỏi anh ta, “Mulla, anh đã hiện diện khi việc này xảy ra. Không có xấu hổ rằng anh đã không làm gì cả phải không? Sau rốt, họ là những người bạn của anh!” Nasruddin đáp, “Thưa quí toà, chỉ có hai chiếc ghế và những người này đã vớ lấy chúng trước. Mọi điều tôi có thể làm là đứng và quan sát. Giá mà có chiếc ghế thứ ba tôi chắc đã tham gia một cách toàn tâm.”
Anh ta, người ở ngoài để cứu, cần phải có lưỡi lê trong tay nữa. Đàn ông không thể nghĩ được ngoại trừ dưới dạng súng. Bạn sẽ bị choáng mà biết điều các nhà khoa học nói. Họ nói rằng mọi vũ khí được đàn ông phát triển chủ yếu tiến hoá từ bộ phận sinh dục của anh ta! Dù đó là kiếm hay súng hay dao, chúng toàn là dụng cụ để đâm xuyên! Chúng toàn là biểu tượng dương vật – vũ khí nhân tạo!
Đàn bà không phát triển vũ khí. Chính ý tưởng đánh nhau gây buồn nôn cho cô ấy. Chiến tranh là vô nghĩa. Chính việc nói về chinh phục là vô hiệu quả. Tâm trí nữ thực tại không bao giờ nghĩ dưới dạng chinh phục mà dưới dạng buông xuôi. Hiểu điều này cho rõ: trung tâm của ý thức nữ là buông xuôi. Trung tâm ý thức của đàn ông là quyết tâm, xung đột, chiến thắng và cái như thế. Ngay cả khi đàn ông lên đường để đạt tới Thượng đế, anh ta đi như kẻ xâm lấn. “Mình sẽ chỉ nghỉ ngơi khi mình đạt tới ngài!” Đây là thái độ của anh ta. Anh ta khởi hành tìm kiếm chân lí dường như anh ta đã khởi hành tìm kẻ thù. Không có thái độ của lời cầu nguyện nhưng có thái độ chinh phục.
Khi chúng ta bắt đầu hiểu Lão Tử, chúng ta sẽ hiểu điều ông ấy nói rằng… “Người buông xuôi, người buông bỏ bản thân mình, người một mình làm ra chỗ bên trong bản thân mình để đạt tới chân lí bao la. Logic, tranh đấu và xung đột là các đặc trưng nam. Buông xuôi, trạng thái phi logic hay bạn có thể nói, đức tin là đặc trưng của tâm trí nữ. Trực giác được sinh ra chỉ trong sương mù của đức tin – trong đức tin và tin cậy. Nếu một người cố có đức tin, điều đó không tới một cách tự nhiên với người đó. Nếu người đó khắc sâu đức tin để đạt tới Thượng đế, đức tin đó không có giá trị. Hoài nghi bao giờ cũng lảng vảng bên trong người như vậy. Sâu bên trong, có hoài nghi, bất tín và bên ngoài có tin cậy và đức tin.
Nasruddin giáo dục con trai anh ta về các con đường của cuộc sống. Anh ta chỉ cho cậu con chiếc thang và nói, “Trèo ngay lên đỉnh!” Đứa con hỏi, “Tại sao? Nhu cầu là gì?” “Không hỏi,” Nasruddin nói, “làm như con được bảo.” Đứa con vâng lời một cách bất đắc dĩ. Khi nó lên tới đỉnh, Mulla giang tay ra và nói, “Giờ nhảy đi! Có đức tin, bố là bố của con. Có thấy tay bố không? Giờ nhảy đi!” Ngay khi cậu con nhảy, Mulla bước sang bên. Đứa con ngã cái uỵch và gẫy chân. Nó bắt đầu khóc.
Nasruddin nói, “Đây là bài học đầu tiên của con trong cuộc sống: Không tin cậy ai cả, ngay cả bố riêng của con! Nếu con muốn thành công trong cuộc sống, không tin cậy ai cả. Khoảnh khắc con tin cậy, con sẽ thua.”
Mọi huấn luyện của đàn ông đều là như vậy. Thế giới anh ta tạo ra khắp xung quanh bản thân mình là thế giới của không tin cậy. Trong thế giới này, chỉ có xung đột, thù địch và cạnh tranh. Tin cậy là tự nhiên thế cho tâm trí nữ. Nhưng nữ của thời chúng ta bị giáo dục bởi đàn ông. Cô ấy bị phải học những lời kinh của giáo dục nam. Do đó, đàn bà không có ý tưởng về ý thức nữ. Đây là lí do tại sao đàn bà được giáo dục như vậy trở nên không tin cậy và hoài nghi hơn đàn ông. Chỉ việc cải đạo sang Hồi giáo diễn ra thường xuyên hơn cho Masjid, cho nên đàn bà được huấn luyện theo cách thức của đàn ông như thế này trở nên hoài nghi hơn.
Bằng không, hoài nghi không phải là bản tính của đàn bà. Buông xuôi đơn giản là bản tính của cô ấy. Cô ấy phải không mang điều này vào, nó là ở trong chính bản tính của cô ấy. Sống trong tin cậy là cách sống của cô ấy: nó là cách thức tồn tại của cô ấy, chính cách sống của cô ấy. Tin cậy được ăn sâu trong mọi lỗ chân lông của con người cô ấy. Nhân tố này cần được nhớ khi xem xét huyền nữ.
Hướng dẫn của Lão Tử tất cả đều nhắm tới lĩnh vực đức tin. Đó là lĩnh vực của sự phối hợp và cộng tác an bình với tự nhiên. Đó là lĩnh vực nơi bạn chảy cùng tự nhiên và không đi ngược lại nó. Đó không phải là bơi trong sông mà thay vì thế là nổi trong nó. Đàn ông nhảy vào sông với đức tin đầy đủ. Anh ta không làm nỗ lực bơi, anh ta nổi. Anh ta không có ham muốn đạt tới bất kì chỗ nào; bất kì chỗ nào sông đưa anh ta đi, đó là mục đích của anh ta. Với đức tin như vậy, anh ta nổi trong sông. Lão Tử nói, “Khi ta còn tìm kiếm, ta đã không tìm thấy chân lí. Ngay khi ta dừng mọi tìm kiếm và chỉ nổi, ta thấy rằng chân lí mãi mãi bên cạnh ta. Việc tìm kiếm của ta đã là điều ngăn trở và do đó ta đã không thể nhìn thấy nó.”
Lão Tử thường nói, “Ta trở thành giống lá khô. Ta đi tới chỗ gió đem ta đến. Từ ngày đó, bản ngã của ta không có chỗ nào đứng; và từ ngày đó ta đã biết chân lí tối cao là gì. Bây giờ không có băn khoăn, không có nghĩ ngợi. Mọi nghĩ ngợi đã là nghĩ ngợi của việc tìm kiếm đâu đó. Mọi nghĩ ngợi là kết quả của việc cố là cái gì đó. Người của đức tin thì hạnh phúc với điều người đó đang vậy, nơi người đó đang hiện hữu, cách người đó là vậy.
Không phải là người đó không du hành. Người đó cũng du hành; nhưng cuộc hành trình của người đó là cùng với cuộc hành trình của toàn thể sự tồn tại và không trong đối lập với nó. Bó rơm chảy cùng sông, đi tới đại dương ngày nào đó. Không cần lên thuyền để tới đại dương. Bó rơm nổi cũng ra tới đại dương và chính sông đưa nó đi, nó không tự mình nó đi. Nó cứu bản thân nó khỏi những phiền phức và đường mòn của bản thân việc đạt tới.
Lão Tử nói, “Nếu chúng ta có thể buông bỏ bản thân chúng ta như đàn bà buông bỏ bản thân cô ấy đi hoàn toàn vào trong yêu; nếu chúng ta trao bản thân mình cho Đạo, cho vũ trụ, cho sự tồn tại, cho Thượng đế như đàn bà trong cánh tay của người yêu của cô ấy, thế thì chúng ta dễ dàng đạt tới chân lí của sự tồn tại.”
Từ “Con đường Đạo”, T.2, Ch.29 Chiều khác của ý thức nữ: đức tin, chấp nhận và buông xuôi