Biết đạo thường thì bao dung

Năm 1959, giải thưởng Nobel được trao cho hai nhà khoa học Mĩ đã là một biến cố duy nhất. Các nhà khoa học này là Ts. Emilio Segre và Ts. Owen Chamberlain. Nó đã là duy nhất theo nghĩa rằng phát kiến của họ trong lĩnh vực khoa học đã mâu thuẫn hoàn toàn với mọi lí thuyết khoa học ngày nay. Họ đã phá huỷ nền tảng của khoa học. Điều họ đã chứng minh là rất gần Lão Tử; nhưng không gần Newton ở đâu cả. Điều họ đã khám phá có thể phù hợp với Gita và không phù hợp với Marx.

Khám phá của họ là ở chỗ nếu có vật chất trên thế giới, có cả phản vật chất nữa, vì không cái gì tồn tại trong thế giới này mà không có cái tương ứng của nó. Có sáng, có tối; nếu có sinh, có tử. Cho nên có vật chất, nhất định có phản vật chất. Họ đã không chỉ để xuất lí thuyết này, họ cũng đã chứng minh nó. Họ đã chứng minh rằng bên trong nguyên tử vật chất, nơi proton làm việc, ngay đó có năng lượng là phản proton. Năng lượng này không để được thấy mà cũng không được trải nghiệm. Trên thế giới này, cái đối lập là không tránh khỏi. Thế giới là sự liên kết của các cái đối lập. Segre và Chamberlain đã đặt tên cho năng lượng này là “phản vật chất.”

Lão Tử, Krishna, Phật và Christ đã cho nó những cái tên khác nhau: atman, luật vĩnh hằng, phúc lớn, giải thoát, Thượng đế. Trong tất cả những cái tên này, một sự kiện là thông thường: tất cả chúng đều đại diện cho phản thế giới, phản vật chất. Các phát kiến của mọi tôn giáo đồng ý ở một điểm: rằng thế giới không thể hiện hữu nếu không có phản thế giới ngược lại nó.

Điều thú vị là Segre và Chamberlain đã tình cờ gặp điều này. Nhưng dầu vậy, đó chỉ là dự đoán. Lí thuyết họ đã xây dựng sẽ chứng minh đúng một ngày nào đó vì nó dựa trên cùng nguyên lí. Luận cứ họ đưa ra là ở chỗ cũng như trong thế giới sức mạnh của lực hấp dẫn kéo xuống, nước chảy xuống dưới, lửa bốc lên cao và protons xoay theo cách đặc biệt – theo cùng cách để giữ cân bằng, phải có một thế giới mà chính là cái đối lập của thế giới này. Như vậy, đây chỉ là lí thuyết; nhưng nó là lí thuyết mạnh vì những người đã đề xuất nó không phải là nhà huyền bí, không phải nhà thơ; nhưng là các nhà khoa học tận tuỵ và năng nổ nhất. Họ xác nhận rằng không cái gì hoạt động trên thế giới này mà không có cái đối lập của nó.

Hoàn toàn có thể là có một thế giới là hoàn toàn đối lập với thế giới mà chúng ta biết. Thế thì vũ trụ chỉ có thể được cân bằng như đôi đĩa cân. Điều đó không thể được nói chừng nào các nhà khoa học sẽ có khả năng chứng minh điều này, nhưng tôn giáo bao giờ cũng tin vào khả năng giải thoát tới một thế giới là đối lập với thế giới trần tục này, tới một thế giới có các luật làm việc đích xác đối lập với luật trần tục.

Jesus nói: “Người đầu tiên ở đây sẽ là người cuối cùng ở đó. Người cuối cùng ở đây sẽ là người đầu tiên ở đó. Người tích luỹ của cải ở đây sẽ thấy nó bị lấy đi khỏi người đó, và người phân phát của cải của mình sẽ nhận nó ở đó.” Đây là luật của cái đối lập được mô tả trong thơ ca.

Ngôn ngữ của Jesus là ngôn ngữ của nhà thơ. Mọi tôn giáo đã từng được diễn đạt trong ngôn ngữ thơ ca. Có lẽ đó là cách nó phải vậy. Trong ngôn ngữ khoa học, yếu tố sống bị mất và, cùng với nó, hương thơm và hài hoà cũng mất. Thơ ca chấm dứt và chỉ các hình ảnh chết còn lại.

Nếu chúng ta nhớ trong tâm trí một quan niệm vắn tắt về luật vĩnh hằng của Lão Tử, chúng ta sẽ có khả năng đi vào trong lời kinh này. Lão Tử nói: có thế giới của thay đổi, nơi mọi thứ thường xuyên thay đổi. Nhưng thế giới này là không đủ. Đúng ra, phải có một thế giới không có thay đổi, để cân bằng với thế giới này. Phải có thế giới đối lập của vĩnh hằng, nơi không cái gì thay đổi, không cái gì di chuyển; nơi chỉ có rỗng và mọi thứ là yên lặng.

Ở đây, trong thế giới này, mọi thứ rung động. Nếu chúng ta hỏi nhà khoa học ông ấy sẽ nói, “Ở đây, chỉ có các rung động. Không cái gì là cố định, không cái gì là ổn định, cho dù trong một khoảnh khắc.” Chúng ta còn chưa thốt ra một lời và sự việc đã thay đổi: Thế giới này là quá trình thay đổi mãnh liệt. Chúng ta gọi nó là quá trình thay đổi, luồng.

Và Lão Tử nói: “Ngay bên trong thế giới này, ẩn kín trong nó, và đích xác cái đối lập của nó, là nguyên lí bao giờ cũng cố định, bao giờ cũng ổn định; nơi không cái gì thay đổi; nơi không có rung động, không có gợn sóng. Điều này ông ấy nói tới là luật vĩnh hằng. Thay đổi trong thế giới này là khả năng duy nhất vì sự cân bằng của luật vĩnh hằng. Nếu như không có luật vĩnh hằng, không thay đổi nào sẽ là có thể.

Từng vật là có thể vì cái đối lập của nó. Bên trong bạn là thân thể. Cũng bên trong bạn có phản thân thể: vật chất cũng như phản vật chất, proton cũng như phản proton. Bên trong bạn là thay đổi và bên trong bạn là vô thay đổi, vĩnh hằng.

Lão Tử nói rằng người nhận cái ngã thay đổi là bản thể của mình là mất trí. Người đó sẽ bất hạnh, trăn trở và thất vọng, vì cái mà người đó đồng nhất với bản thân mình là không ổn định trong một khoảnh khắc. Người đó sẽ bị kéo lê đi cùng với nó, và hi vọng của người đó sẽ bị va chạm với đất nền. Làm sao người ta có thể ghim hi vọng của mình vào thứ thay đổi? Thay đổi không thể được tin cậy. Thay đổi nghĩa là cái không thể được dựa vào. Đặt đức tin vào hiện tượng thay đổi là xây lâu đài trên cát. Ngay khi chúng ta đặt nền móng thì đất bên dưới trượt đi. Trước khi chúng ta đặt ván lót sàn nền móng biến mất.

Do đó đau và buồn sẽ là định mệnh của người nối bản thân mình với thế giới của thay đổi. Đau và buồn ngụ ý rằng mọi hi vọng sẽ bị ném mạnh xuống đất và các mơ ước của người đó sẽ bị tan vỡ. Những cầu vồng người đó lan toả về hi vọng và mong đợi của mình, tay người đó sẽ càng trống rỗng hơn. Thế rồi, chán nản và thất vọng và buồn sẽ trở thành một phần của cuộc sống của người đó. Bất hạnh ngụ ý đồng nhất bản thân người ta với với thay đổi. Phúc lạc ngụ ý sự thống nhất bản thể của người ta với cái vĩnh hằng. Cả hai có đó. Điều đó tuỳ thuộc vào chúng ta chọn cái nào.

Luật vĩnh hằng ngụ ý: cái đối lập của bất kì cái gì chúng ta thấy. Nó ngụ ý: cái không thấy được được ẩn trong cái thấy được. Khi chúng ta chạm, đó không phải là điều chúng ta chạm mà là cái không thể được chạm.

Tôi nói một lời hay tôi gẩy một nốt trên đàn veena và âm thanh được tạo ra. Rung động của nó lan ra ngoài. Tai bạn nhận tác động và sóng của nó đạt tới tim bạn. Thế rồi, sau một thời gian nào đó, nốt này nhoà dần đi; tác động bị mất. Âm thanh là một phần của thay đổi. Một lúc trước đây nó đã không có đó và một lúc sau đó nó lại không có đó. Dây đàn veena rung với cái chạm của tay tôi. Nốt nhạc được tạo ra, sóng rung động lan toả xung quanh. Thế rồi dây đàn veena dừng rung; âm thanh bị mất trong trống rỗng và mọi thứ lần nữa lại im lặng.

Âm thanh là thay đổi. Im lặng, hư không đã có trước âm thanh, là vĩnh hằng. Im lặng xảy ra sau âm thanh cũng là vĩnh hằng. Và rỗng trong đó âm thanh rung động, cái đó nữa cũng là vĩnh hằng. Mọi việc xảy ra đều xảy ra trong hư không. Nó xuất hiện trong hư không và nó biến mất trong hư không. Biết vĩnh hằng này là Đạo, Lão Tử nói. Biết vĩnh hằng này là tôn giáo.

Bây giờ chúng ta sẽ tiến vào hiểu lời kinh này.

 

“Biết đạo thường thì bao dung.”

 

Nói người biết đạo thường trở thành bao dung là không đúng, người đó là bao dung. Người đó không phải làm bất kì cái gì để trở thành bao dung.

Hiểu biết về đạo thường làm cho người ta thành bao dung. Tại sao? Không bao dung của chúng ta là gì, không kiên nhẫn của chúng ta là gì?

Không kiên nhẫn của chúng ta là sợ rằng cái thay đổi sẽ thay đổi! Cái thay đổi phải không thay đổi. Đó là điều chúng ta muốn. Do đó chúng ta cố trói buộc mọi thứ quanh chúng ta và sống như điều đó.

Con trai lớn lên. Bản thân người mẹ giúp nó lớn lên. Nhưng khi nó lớn lên, nó đi ngày càng xa hơn khỏi người mẹ. Đây là phần bất biến của trưởng thành. Bản thân người mẹ nuôi dưỡng nó lớn lên, giúp nó đi ngày càng xa hơn khỏi cô ấy. Thế rồi, khi cô ấy nhận ra điều này, cô ấy khóc và rền rĩ. Đứa con phải được nuôi lớn, và tình yêu của cô ấy là phương tiện trong việc đó. Nhưng đứa con trai quay lưng lại với chính tình yêu này. Người mẹ dệt nên những giấc mơ đẹp khi cô ấy nuôi dưỡng đứa con của mình. Cô ấy tưởng tượng con trai mình sẽ mang những ngôi sao xuống cho cô ấy. Cô ấy tin tưởng nó sẽ quay về với tình yêu của cô ấy cả nghìn lần. Hỡi ôi, những mơ ước này bị tan tành một ngày nào đó.

Chúng ta không thể xoay hi vọng của chúng ta quanh những thứ vô thường, vì chúng không mang lại cái gì ngoài đau. Yêu cũng là một luồng – sông Hằng không dừng lại chỉ ở một hẻm núi. Tương tự, yêu cũng không đợi ở một bến bờ. Hôm nay đứa con yêu mẹ nó; ngày mai nó sẽ yêu ai đó khác. Hôm nay, người mẹ cố trói buộc nó và khổ vì điều này; ngày mai vợ nó cũng sẽ khổ theo cùng cách. Bất kì ai cố trói buộc ai đó khác đều khổ. Mọi nỗ lực để trói buộc cái phù du đều kết thúc trong thảm hoạ. Thế thì chúng ta trở thành không dung thứ; chúng ta trở thành nhiều suy tư; chúng ta mất mọi sức mạnh độ lượng.

Tất cả chúng ta đều không bao dung. Chúng ta không thể bao dung bất kì cái gì. Nếu tôi yêu ai đó và ai đó đó nhìn người khác một cách tán thưởng, tôi phát điên với ghen; tôi không thể bao dung được điều đó.

Lão Tử nói: “Người biết đạo thường thì bao dung” – vì ông ấy biết rằng trong thế giới nhất thời này, mọi thứ đều thiên về thay đổi. Không cái gì là cố định, ngay cả yêu cũng không cố định. Chúng ta không thể đính hi vọng của mình vào bất kì cái gì ở đây. Người cố làm như vậy bị khổ. Nếu bạn bước đi ngược với qui tắc hấp dẫn, bạn nhất định ngã. Bạn không thể trách luật hấp dẫn về điều này. Bạn không thể trách bất kì ai ngoài bản thân bạn. Dốt của bạn về luật này mang bạn tới nuối tiếc. Giá mà bạn cẩn thận, bạn chắc đã không ngã. Bạn sẽ không bị gẫy chân nếu bạn vâng lời luật hấp dẫn vì chính luật này tạo khả năng cho chúng ta bước đi.

Người đạt tới hiểu biết về luật này không xây dựng hi vọng vào việc đối lập với luật này. Người đó biết rằng luật thay phiên nói rằng không cái gì là thường hằng. Do đó, bất kì chỗ nào người đó cố dừng thay đổi, người đó nhất định đi tới đối đầu với khó khăn và cản trở. Thế rồi những khó khăn này biến anh ta thành các cái nút. Người biết luật vĩnh hằng thì hiểu qui tắc của thay đổi và trở nên bao dung. Người biết rằng nếu có kính trọng hôm nay, sẽ có bất kính ngày mai. Người đó không bám vào kính trọng vì người đó biết nó có thể biến thành bất kính bất kì ngày nào. Người đó đón chảo bất kính nhiều như kính trọng và biết rằng cả hai là vô thường. Chỗ cho không bao dung ở đâu trong người như vậy?

Hôm qua bạn đã kính trọng tôi. Hôm nay bạn ném lời chửi. Đó là cách không bao dung được sinh ra. Tôi đã mong đợi rằng bạn chắc sẽ dành cho tôi cùng kính trọng hôm nay. Không phải lời chửi của bạn gây đau; chính việc tan vỡ của mong đợi ảo tưởng của tôi mới mang tới đau. Tôi đã ở dưới ấn tượng rằng người đã chạm chân tôi hôm qua dứt khoát sẽ chạm chân hôm nay. Tôi có quyền gì để mong đợi điều này? Cái gì dẫn tôi tới mong đợi này, trong thế giới nhất thời này? Nhiều nước đã chảy xuôi sông Hằng từ hôm qua, và do vậy mọi người của hôm qua đã đi theo theo dòng chảy thời gian. Theo cách giống vậy, kính trọng và tôn kính của hôm qua là câu chuyện quá khứ của hôm nay. Cái gì đã không thay đổi trong hai mươi bốn giờ qua? Nhiều sao thế đã được sinh ra và nhiều sao thế đã tan rã; nhiều kiếp thế đã được hình thành và nhiều kiếp thế đã tan rã. Trong trật tự bao la của thay đổi trong vũ trụ, một thứ nhỏ bé thế như thay đổi thái độ của một người mà được gọi là thay đổi sao? Chuyện có thể bỏ qua được thế về một thay đổi mà không đáng nhắc tới.

Nơi nhiều thay đổi thế mỗi giây, điều sẽ là kì lạ nếu một người đã không thay đổi. Thay đổi trong người đó là cực kì tương ứng theo luật. Nếu mong đợi của tôi về cùng tôn kính tôi đã được cho hôm qua mà không tới, điều đó nhất định cho tôi đau và do đó tôi trở nên không bao dung.

Bao dung ngụ ý chấp nhận mọi thứ xảy ra trong thế giới đang thay đổi này. Có sống hôm nay; sẽ có chết ngày mai. Bây giờ là buổi sáng, trời sẽ sớm là buổi tối. Có sáng bây giờ, trời sẽ sớm là tối. Buổi sáng thấy tim tôi tràn đầy hoa, nhưng buổi tối hoa sẽ biến thành bụi. Điều này nhất định là vậy. Do đó, không có nhu cầu bám lấy hoa buổi sáng hoặc khóc với cánh hoa tàn phai vào buổi tối.

Người hiểu luật thay đổi này thì không đồng nhất bản thân mình với nó. Thay vì thế, người đó thiết lập nên căn cước của mình với cái không thay đổi. Và chỉ có một thứ bên trong chúng ta mà không thay đổi: nhân chứng bên trong. Buổi sáng mang tới hoa mỉm cười, hương thơm trong không khí, nhạc, múa của tự nhiên. Nhưng đến tối, mọi thứ đã thay đổi: nhạc, múa và hương thơm không có ở đâu cả; các cổng trời được đóng lại và tôi thấy bản thân tôi đang đứng ở giữa địa ngục. Không có gì quanh tôi cho tôi hướng dẫn về buổi sáng. Chỉ một thứ là thường hằng. Vào buổi sáng chính tôi đã nhìn vào buổi sáng và vào buổi tối đó lại là tôi đang nhìn. Vào buổi sáng chính tôi đã thấy việc nở của hoa và vào buổi tối chính tôi đã thấy mọi thứ trở về với bụi. Duy nhất nhân chứng là vĩnh hằng.

Đã có ngày khi tôi còn trẻ; sẽ có ngày khi tôi già. Đã có ngày khi tôi được tràn đầy với mạnh khoẻ và hạnh phúc; đã có những ngày khác khi tôi ốm và không khoẻ. Tôi đã thấy bản thân tôi ở đỉnh danh vọng và tôi cũng đã thấy bản thân tôi trong vực thẳm của nhục nhã. Một yếu tố trong mọi điều này là thường hằng: yếu tố của việc biết. Việc biết này trong bản thân nó là vĩnh hằng, thường hằng. Mọi thứ khác là không thường hằng và nhất thời. Ý thức chứng kiến bên trong là vĩnh hằng.

Khi Lão Tử nói rằng người biết luật vĩnh hằng trở nên bao dung, ông ấy ngụ ý rằng người trở thành nhân chứng cho mọi thứ xung quanh và bên trong người đó trở nên bao dung. Hơi chút lệch khỏi trạng thái chứng kiến và mọi ốm yếu và thất vọng bắt đầu ngay lập tức. Việc đồng nhất của một khoảnh khắc với ngay cả một phần của các thứ nhất thời và bạn rơi khỏi trạng thái chứng kiến.

Biết đạo thường thì bao dung, bao dung thì công bình….

Bao dung ngụ ý: Bất kì cái gì xảy ra, không có chỗ cho bất mãn. Có trạng thái mãn nguyện vô điều kiện trong mọi hoàn cảnh. Mãn nguyện không phụ thuộc vào bất kì lí do nào, không nguyên nhân.

Một người nói, “Tôi hài lòng. Tôi có số dư ngân hàng lớn.” Người khác nói, “Tôi được thoả mãn với cuộc sống, tôi có vợ, con và việc sống tiện nghi.” Vậy mà người khác nói, “Tôi hạnh phúc, tôi không có gì hơn để đòi hỏi cuộc sống. Tôi có tên tuổi, tôi có danh vọng.” Nhưng không người nào trong những người này thực sự mãn nguyện vì mãn nguyện của họ là có nguyên nhân. Nếu, ngày mai, có hơi chút thiếu thốn trong tình huống của họ, sẽ không có gì ngoài bất mãn. Mãn nguyện của họ là giả, lừa dối mà họ cho phép lên bản thân họ.

Mãn nguyện ngụ ý mãn nguyện vô điều kiện. Không có lí do rõ ràng nào một người nói, “Tôi mãn nguyện.” Người đó mãn nguyện không vì lí do nào. Người đó đã trải nghiệm cái vĩnh hằng như tách rời khỏi thế giới thay phiên; người đó bây giờ đã đồng nhất bản thân mình với cái vĩnh hằng và đã nhận ra cái vô thường của thế giới đang thay đổi. Bao dung và mãn nguyện là những việc xảy ra vô điều kiện.

Ai đó đã nói với Phật, “Ông không là gì cả. Vậy mà ông có vẻ mãn nguyện thế!” Câu hỏi này là rất tự nhiên. Nếu một người có cái gì đó, chúng ta có thể hiểu nghĩa về thoả mãn của người đó. Nhưng Phật chẳng có gì. Ông ấy ngồi dưới cây chẳng có gì bên cạnh ông ấy. Cái nhìn thoả mãn của ông ấy gây phân vân. Người này cầu xin ông ấy giải thích làm sao ông ấy đã đi tới được mãn nguyện thế. Người này nói, “Chỉ người điên có thể hạnh phúc mà không có lí do. Và ông không có vẻ điên gì. Ông là ai? Ông có vẻ dường như đã là hoàng đế của toàn thế giới, phải không?”

Phật nói, “Không.”

“Ông có là sinh linh tinh tú giáng xuống từ cõi trời không?”

Phật nói, “Không.”

Người này vẫn cứ hỏi liệu ông ấy có là thế này thế nọ không, và với mọi câu hỏi Phật đều đáp lại trong phủ định. Người này trở nên trăn trở. “Sau rốt ông là cái cái gì đó: ông là cái gì?” người đó lại hỏi.

Thế rồi Phật đáp, “Ta đã có thời là con vật. Có lí do cho điều này. Ham muốn của ta đã là tới mức ta phải là con vật. Ta cũng đã là người nữa. Ham muốn của ta đã là tới mức ta phải là vậy. Ta đã là sinh linh tinh tú nữa vào một lúc mà ham muốn của ta đã là tới mức ta phải là vậy. Đây đã là mọi sự tồn tại nhân quả. Giờ ta chỉ là ‘Phật’. Ta không là con vật không là thần không là người. Ta chỉ là Phật.”

Người này hỏi, “Nghĩa của Phật là gì?”

Phật nói, “Giờ ta chỉ là người thức tỉnh. Giờ ta là ý thức thức tỉnh, ta chỉ là ý thức. Ta không là cá nhân thêm nữa vì cá nhân được sinh ra bởi việc bám lấy những hình thể thay đổi. Nhiều lần ta đã bám lấy hình thể con vật; nhiều lần ta đã bám lất hình thể rau cỏ và nhiều lần ta đã bám lấy hình thể người. Đây đã là những nhân cách của ta. Bây giờ ta không có nhân cách, không tính cá nhân. Ta chỉ là ý thức – ngọn lửa của chiếc đèn.”

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.16 Cánh cửa của Đạo – kiên nhẫn và vô định kiến

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471