Bao dung thì công bình, công bình thì bao khắp

Đạt tới luật vĩnh hằng là trở thành chiếc đèn của vĩnh hằng. Nếu tôi không là vô thường, nếu tôi là vĩnh hằng, không thể có không bao dung. Nếu không có kết nối nào với cái nhất thời, không có sợ mất kết nối. Những người hi vọng có thể bị thất vọng nhưng người không hi vọng thì không có cách nào để bị thất vọng. Nhưng người có tài sản có thể trở nên không xu dính túi bất kì ngày nào, nhưng những người không có gì, người đã không bám vào bất kì tài sản nào thì không có cách nào trở thành không xu dính túi. Làm sao bạn có thể giằng khỏi tôi cái mà tôi không bao giờ bám vào? Bạn chỉ có thể giằng được nó nếu tôi giữ lấy nó.

Trạng thái chứng kiến này, hiểu biết này hay luật vĩnh hằng, là việc thoát khỏi thế giới của thay đổi. Thế thì sông Hằng chảy và tôi ngồi trên bờ của nó. Thế thì, khi dòng chảy mang hoa đi trên ngực của nó, tôi nhìn vào chúng; hay khi cái xác được tắm trong dòng nước chảy của nó, cái đó nữa tôi cũng nhìn. Khi mưa rơi xuống đất trong dòng nước của sông, tôi quan sát nước ngầu bùn; và khi nước là trong như pha lê và phản xạ trời xanh bên trên, thế thì tôi thậm chí cũng quan sát. Nhưng tôi không là một với sông Hằng; tôi không là sông Hằng. Tôi đơn thuần ngồi trên bờ của nó và quan sát hình mẫu thay đổi trong thế giới thay phiên. Khi trạng thái chứng kiến trở thành cố định trên bờ của dòng chảy thay đổi, thế thì tôi không bị ảnh hưởng bởi việc chảy cùng dòng sông và việc không chảy.

Nhìn vào dòng chảy của sông, tôi không ghim hi vọng của tôi vào nó vì tôi biết rằng lúc thì nó mang hoa và lúc thì nó mang xác. Tôi cũng biết rằng nước của nó nhiều lần là trong tới mức tôi có thể thấy phản xạ của sao bên trên; nhưng cũng có những lúc nước đục, ngầu bùn. Tôi biết thịnh nộ của nó khi nó dâng lên trên bờ sông; và tôi biết hiền lành của nó khi nó co nhỏ lại thành một dải nước mỏng. Nhưng tôi chẳng liên quan gì tới mọi điều này. Tôi đơn thuần ngồi trên bờ của nó và quan sát. Hiểu biết về luật vĩnh hằng là ngồi trên bờ của thế giới thay đổi, được thiết lập đầy đủ trong trạng thái chứng kiến.

Lão Tử nói, “Người trở nên bao dung trở thành công bình.” Điều này cần được giải thích. Thực tại, chúng ta chỉ có thể chọn các bên khi có việc chọn lựa. Tôi nói một người là tốt vì người đó cư xử như tôi mong đợi người đó làm vậy. Tôi nói một người là xấu vì người đó không cư xử như tôi mong đợi người đó làm vậy. Nhưng nếu tôi không mong đợi bất kì cái gì, không có vấn đề về một người là tốt hay xấu.

Tôi nói một người là tội nhân hay một người là thánh nhân. Dù người này là tội nhân hay không, tôi không biết; nhưng vì anh ta phá huỷ mong đợi nào đó của tôi, anh ta là tội nhân trong mắt tôi. Và người tôi gọi là thánh nhân là người đáp ứng cho những mong đợi nào đó của tôi. Dù người đó có thực là thánh nhân hay không, tôi không biết.

Nếu bạn quan sát mọi thứ quanh những người đó, người bạn coi như sadhus và cũng quanh những người bạn gọi là tội nhân, bạn sẽ thấy rằng người làm hài lòng hi vọng và mong đợi của bạn là sadhu còn người không làm hài lòng và mong đợi đó là tội nhận. Nếu bạn tin rằng sadhu sẽ đi với mặt nạ trên mặt, thế thì khi bạn gặp người đó bạn sẽ sụp xuống chân người đó. Cùng người này, nếu người đó bỏ mặt nạ ra. Sẽ thấy thậm chí khó mà kiếm được việc làm người hầu trong nhà của người đi theo người đó. Mọi thứ phụ thuộc vào cách nghĩ của bạn. Một người là một sadhu vĩ đại nếu người đó đáp ứng toàn bộ mong đợi của bạn. Nếu người đó ngập ngừng, nếu người đó không nghiêm, người đó trở thành một sadhu kém hơn. Nhưng ai là thánh nhân và ai là tội nhân trong mắt của người không mong đợi cái gì?

Lão Tử nói, “Người đạt tới vĩnh hằng trở thành công bình.” Với người đó, không có khác biệt giữa Rama và Ravana, vì khác biệt giữa Rama và Ravana là khác biệt giữa những mong đợi của chúng ta. Nó là định kiến của chúng ta, phân chia của chúng ta đang vận hành. Nếu tôi không có định kiến, không có khác biệt. Là công bình ngụ ý tôi không có gì để chọn. Tôi không làm chọn lựa. Là công bình cũng ngụ ý rằng tôi không nói với bạn: “Là giống cái này.”

Tôi có một người bạn, người lớn tuổi. Con trai ông ta chết. Con trai ông ta là bộ trưởng trong nghị viện. Trong thâm tâm của mình, ông già này đã hi vọng anh ta sẽ trở thành thủ tướng một ngày nào đó. Mọi người bố đều mong đợi con trai mình trở thảnh thủ tướng, không thành vấn đề họ xứng đáng với cái gì. Trong trường hợp này cậu con trai đã là bộ trưởng rồi nên điều chỉ là tự nhiên với ông già này là hi vọng rằng anh ta sẽ là thủ tướng. Ông ấy khóc một cách cay đắng khi con trai mình chết. Ông ấy cũng nói bóng gió tới tự tử. Tôi hỏi ông ấy cái gì gây ra nỗi đau lớn thế. Ông ấy nói, “Con trai tôi đã chết.”

“Nếu con trai ông là kẻ trộm thường, là thổ phỉ, kẻ sát nhân, liệu ông có kêu khóc cho anh ta và nghĩ tới tự tử không?” Tôi hỏi.

Nước mắt ông ấy ngừng chảy, ông ấy sửng sốt nhìn tôi. “Ông nói cái gì vậy? Nếu mà con trai tôi là vậy, tôi chắc đã muốn nó chết đi từ khoảnh khắc nó được sinh ra!”

“Thế thì đừng nói ông đang khóc vì con trai ông,” tôi bảo ông ấy. “Ông đang khóc vì tham vọng bí mật ông đã được nuôi dưỡng trong con trai ông. Ông đã cố hoàn thành tham vọng riêng của ông, qua con trai ông. Nếu con trai ông mà trở thành thủ tướng, ông chắc đã trở thành bố của thủ tướng – cũng như ông chắc vẫn là bố của anh ta nếu như anh ta là kẻ cắp, kẻ tội phạm. Tham vọng ẩn kín nào đó đã chết đi cùng con trai ông. Đó là nguyên nhân của nuối tiếc của ông.”

Ông ấy bị bực mình rằng tôi nói cho ông ấy như thế này trong khoảnh khắc đau buồn của ông ấy. Nhưng tôi bảo ông ấy rằng tôi chỉ nói điều này cho ông ấy vì sự thực là dễ nhận ra vào lúc đau buồn. Sự thực nổi bật rõ ràng vào những lúc như vậy. Khi bạn làm nhà bằng bìa và sống hạnh phúc trong nó, sẽ là vô ích mà đi thuyết phục bạn rằng nó nhất định đổ. Nhưng khi nó đổ bởi cơn gió mạnh đầu tiên và bạn than khóc về mất mát này, có lẽ bạn sẽ hiểu điều tôi ngụ ý. Nếu bạn đi thuyền buồm bằng giấy, bạn không thể đi xa. Nhưng nếu nó đi được chút ít khoảng cách, thế thì không thể nào biết được rằng nó được làm bằng giấy. Điều nó đi được chút ít khoảng cách là phép màu. Chính là chỉ khi nó chìm mà chúng ta nhận ra sự kiện này. Trong buồn và đau, việc tới của sự thực là dễ hơn. Cái gì là tốt, cái gì là xấu? Đứa con trai là tốt hay đứa con trai là xấu là cái gì đó trở thành vấn đề nếu tôi bị đồng nhất với thế giới của thay đổi; bằng không thì không đâu.

Lão Tử nói, “Người trở thành bao dung trở thành công bình.” Công bình ngụ ý: khi không có mong đợi bên trong, không có chọn lựa bên ngoài. Nếu Lão Tử mà được bảo, “Người này là xấu. Làm người đó thành người tốt đi,” Lão Tử chắc sẽ nói, “Ta không có mong đợi. Thậm chí ta cũng chẳng biết ai là tốt và ai là xấu. Ta cũng không biết cách làm cho một người thành tốt. Và người trở thành tốt với ta có thể không phải là tốt cho người khác vì người khác có mong đợi riêng của họ.”

Người tồi nhất trong mọi người có thể chứng tỏ là tốt với ai đó trong thế giới này. Người tốt nhất trong mọi người có thể biến thành xấu với ai đó trong thế giới này. Không có cách nào là một trăm phần trăm tốt hay một trăm phần trăm xấu. Giá mà bạn là người duy nhất trên trái đất này, bạn có thể có một trăm phần trăm theo cả hai cách. Nhưng có người khác trên thế giới này, người có mong đợi riêng của họ. Do đó, ngoại trừ một tá người, Jesus đã bị coi là người xấu, thích hợp để bị đóng đinh. Ông ấy đã không đáp ứng cho các điều kiện phổ biến vào những ngày đó để là người tốt; ông ấy đã không hoàn thành mong đợi của họ.

Jesus đã ở trong nhà của gái mãi dâm – điều gì có thể tồi tệ hơn điều này? Cho nên tất cả những người khao khát tới thăm nhà thổ đã thấy cơ hội phù hợp để trút giận của họ lên ông ấy. Điều chúng ta coi là phẫn nộ đúng thì chín mươi chín phần trăm được sinh từ ghen tị. Những người trừng phạt Jesus đã là chính những người khao khát đi tới gái mãi dâm nhưng sợ điều mọi người có thể nói. Bây giờ đây đã là giới hạn – một người được cho là tốt tới thăm nhà gái mãi dâm! Hoặc người này phải được tuyên bố là xấu, hoặc phải ban hành qui định rằng người tốt có thể tới thăm nhà thổ.

Quyết định thứ hai không thể được lấy. Lí do tại sao là khá rắc rối và phức tạp, và có lịch sử lâu dài đằng sau nó. Nhà thổ là sản phẩm phụ của thể chế hôn nhân. Chừng nào truyền thống hôn nhân còn tiếp tục, nhà thổ không thể bị xoá đi. Cho nên điều duy nhất còn lại là tuyên bố Jesus là người xấu. Điều này phù hợp cho mọi người, vì bố sợ để con trai đi tới gái mãi dâm và vợ sợ chồng làm cùng điều đó. Toàn xã hội sợ vấn đề này. Và vậy mà chính xã hội này đã cho sinh ra mãi dâm.

Nhưng phần lớn mọi người đi tới nhà thổ dưới sự che đậy của bóng tối. Sai lầm duy nhất là Jesus đã phạm phải là ông ấy đã đi tới nhà của gái mãi dâm trong ánh sáng ban ngày. Đây là lỗi duy nhất của ông ấy. Ông ấy chắc có thể đã cứu được bản thân mình khỏi cây chữ thập nếu như ông ấy láu lỉnh một chút. Mọi người đi tới nhà thổ, ngay cả những người đóng đinh ông ấy. Nhưng họ biết cách thức và khi nào đi. Jesus có thể xin tha thứ, hứa ăn năn, lấy lời nguyện để cứu bản thân ông ấy.

Nhưng Jesus là người cứng rắn. Ông ấy khăng khăng rằng ông ấy đã không làm điều sai. Ông ấy nói rằng cô ấy có thể là gái mãi dâm với người khác, nhưng không với ông ấy. Mãi dâm là quan hệ; nó không liên quan gì tới người. Hệt như vợ là mối quan hệ và không là người. Vợ của người này có thể là gái mãi dâm của người khác. Cho nên Jesus khăng khăng rằng cô ấy không phải là gái mãi dâm với ông ấy và nếu người khác nghĩ cô ấy là vậy thế thì họ được phép tự do không tới thăm cô ấy. Nhưng điều này ở bên ngoài việc hiểu của họ. Người này phải bị đóng đinh.

Những người đi theo Jesus đã đợi và hi vọng mãi tới khoảnh khắc cuối cùng về phép màu cứu Jesus và chứng minh ông ấy đúng. Vì họ nữa đã không thể dừng hoài nghi; vì họ là sản phẩm của cùng xã hội. Chính bởi vì họ bị ấn tượng bởi Jesus, họ đã yêu ông ấy, mà họ đã theo ông ấy. Chỉ vừa vặn có một tá người theo ông ấy, và Jesus biết rằng họ nữa chắc sẽ bỏ ông ấy và chạy xa vào thời điểm khủng hoảng. Và họ đã làm vậy!

Khi thân thể của Jesus được đưa xuống khỏi cây chữ thập, chỉ gái mãi dâm này vẫn còn cùng với ông ấy. Mọi đệ tử còn lại đã chạy đi mất. Thực sự, cô ấy không phải là gái mãi dâm khi có liên quan tới Jesus. Và với cô ấy, Jesus đã không phải là người thường. Khi các đệ tử thân tín nhất của ông ấy chạy đi – chính những người đã được tôn làm mười hai tông đồ về sau – người đàn bà này đã đứng cạnh ông ấy, mãi cho tới cuối cùng. Cô gái mãi dâm đã đưa Jesus xuống từ cây chữ thập.

Ai định quyết định ai là tốt và ai là xấu? Và làm sao chúng ta quyết định được? Bao giờ cũng có một tiêu chí này: cái đáp ứng cho mong đợi của bạn là tốt; cái không đáp ứng là xấu. Nhưng nếu một người không có hi vọng, không lí tưởng, người đó trở thành công bình.

Điều này là khó cho những người như Jesus. Một gái mãi dâm đã mời ông ấy ở lại đêm tại nhà cô ấy và Jesus đã không có hối tiếc. Ông ấy sẵn sàng đồng ý. Giá như đó là bạn, bạn chắc đã nghĩ về chuyện bê bối sẽ lan truyền trong thành phố. Vợ bạn, con bạn, bạn bè của bạn sẽ nói gì? Jesus đơn giản chấp nhận lời mời.

Cùng điều này đã xảy ra với Phật. Một gái mãi dâm một sáng tới và mời ông ấy đi ăn ở nhà cô ấy. Ông ấy đã chấp nhận. Về sau trong ngày Prasenjita, hoàng đế tới mời ông ấy tới cung điện của ông ta. Phật nói, “Tôi đã được Amrapali mời rồi.”

Nhà vua tranh cãi với ông ấy, “Hãy nghĩ về danh tiếng của thầy. Mọi người sẽ nói gì khi họ nghe tin thầy đã ăn tại nhà của gái mãi dâm?”

Phật đáp, “Cô ấy đã mời ta trước hết và ta đã chấp nhận lời mời của cô ấy? Nếu ta vẫn sợ điều làm ông kinh hãi, ta không là phật. Bê bối này sẽ chỉ bị hạn chế cho thế giới này; nhưng nếu ta không đi tới cô ấy, vì sợ phỉ báng và chấp nhận lời mời của ông, thế thì mọi chư phật đã từng hiện hữu, sẽ cười nhạo ta. Ta thà bị phỉ báng ở đây còn hơn bị khinh thường ở kia.”

Lão Tử nói, “Người như vậy trở thành công bình. Người đó không chọn bên cách này hay cách khác, nhưng sống một cách tự nhiên. Người đó không chấp nhận phán xét về cái gì là tốt và cái gì là xấu; cái gì nên hiện hữu và cái gì không nên hiện hữu.

Điều này sẽ là khó hiểu cho những người là nhà đạo đức, nhưng người coi đạo đức là điều cao nhất trong tôn giáo. Đạo đức là mục đích cao nhất cho những người là vô đạo đức, hệt như thuốc là tốt chỉ cho những người ốm. Đạo đức là hữu dụng cho người vô đạo đức; nhưng với những người đã đạt tới tôn giáo, đạo đức giảm đi dễ dàng như vô đạo đức. Mọi phía đều giảm đi cho người như vậy.

Mọi quan niệm đạo đức là có tính bộ phận. Đạo đức bắt đầu trong các thuật ngữ không chắc chắn cái gì là đúng và cái gì là sai. Mọi qui tắc của nó là có tính toán học chặt chẽ; mọi bước nó lấy đều được tính toán. Tôn giáo không bám lấy những tính toán như vậy.

Người được thiết lập trong luật vĩnh hằng để mọi sự cho cái vĩnh hằng. Thế thì người đó không quan tâm tới nó dù người đó đi tới đâu – sang phương Đông hay sang phương Tây, sang sáng hay sang tối.

Chúng ta hãy hiểu khác biệt này theo cách này. Một người chèo thuyền làm việc với thuyền của mình với sự giúp đỡ của mái chèo. Người đó phải dùng mọi năng lượng của mình để chèo mái chèo. Có người chèo thuyền khác – người này dựng buồm lên và để gió đem người đó tới đích đến của mình. Người đó không dùng mái chèo, bản thân gió mang người đó đi.

Người đạo đức dùng mái chèo mọi lúc. Người đó phải lưu tâm mọi khoảnh khắc về người đó đang đi đâu. Người đó phải thường xuyên làm việc quần quật. Bao giờ cũng có xung đột giữa thuyền và sông. Đó là cuộc vận lộn thường xuyên.

Người tôn giáo là người để mái chèo sang bên, dựng buồm lên và mời Thượng đế, cái vĩnh hằng, mang người đó đi bất kì chỗ nào Ngài quyết chí. Bây giờ, bất kì chỗ nào người đó được đem đi là đích đến của người đó. Nếu thuyền lật úp giữa dòng, thế thì đó là đích đến của người đó. Người tôn giáo phải không làm gì ngoại trừ thu lấy dũng cảm để bản thân mình vào trong tay của cái vĩnh hằng. Người đó không chọn lựa bến bờ nào cho bản thân mình. Bất kì chỗ nào người đó lên bờ đó là nhà của người đó. Người đó chỉ đạt tới.

Người đạo đức bao giờ cũng đặt mục đích để đạt tới. Do đó, người đó nhất định thiên vị; người đó không bao giờ có thể là công bình. Nếu người đó dường như công bình, đó là hành động người đó làm ra vẻ như vậy, sự công bình được trau dồi. Người đó học là công bình từng bước một. Tính công bình của người tôn giáo là tự nhiên, tự phát. Điều này là khó. Rất khó cho chúng ta ngay cả là có tính đạo đức.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.16 Cánh cửa của Đạo – kiên nhẫn và vô định kiến

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471