Nghĩ nhiều và tĩnh lặng – Hành vi và bản tính

Trong lời kinh cuối hôm qua có nói rằng người đã đi tới biết bí mật của nghỉ ngơi đi theo sau một cách tự nhiên mọi hoạt động, thì duy trì bình thản của người đó mọi lúc. Thấy cũng đã nói rằng hoạt động mãnh liệt được đi theo sau bởi thảnh thơi sâu. Nhưng kinh nghiệm của chúng tôi là ở chỗ bình thản được đạt tới bởi hoạt động mãnh liệt cũng là không ổn định vì nó nữa cũng sớm tản mác. Xin thầy nói cho chúng tôi cách bình thản lâu dài có thể được đạt tới.

 

Có hai trạng thái của tâm trí: một là nghĩ nhiều; trạng thái kia là tĩnh lặng. Bất kì khi nào chúng ta hoạt động, tâm trí luôn nghĩ nhiều. Hoạt động bắt đầu và căng thẳng được hình thành và ý nghĩ được thức tỉnh. Nhiều công việc bắt đầu cả ở bên trong cũng như bên ngoài. Đó là nghĩ nhiều. Thế rồi công việc dừng lại. Nếu chúng ta đi vào trong các hoạt động một cách nhất tâm, thế thì, Lão Tử nói, hoạt động bên trong dừng lại. Thế thì an bình xảy ra sau đó.

Hoàn cảnh của chúng ta là tới mức chúng ta không nghĩ thật nhiều cũng không hoàn toàn nghỉ ngơi. Để được thảnh thơi hoàn toàn chúng ta sẽ phải được thúc đẩy đầy đủ trong công việc của chúng ta. Bằng không điều đó là không thể được. Do đó, căng thẳng và nghĩ nhiều vẫn còn ngay cả sau khi công việc đã qua, bắt đầu chuyển vào bên trong và còn lại đó.

Chẳng hạn, ví dụ tôi đang giận bạn. Nhưng điều tự nhiên xảy ra là ở chỗ tôi không trở nên hoàn toàn giận bạn. Tôi kìm nén một phần giận của tôi. Thế rồi, khi bạn đã đi xa và câu chuyện đã chấm dứt, giận vẫn còn bên trong tôi sẽ bắt đầu làm việc. Giá như tôi đã giận toàn bộ, giận bên trong chắc đã kết thúc cùng với việc kết thúc của sự vụ này.

Gurdjieff thường dạy cho các đệ tử của ông ấy cách là giận. Ông ấy đã là thầy giáo có óc xét đoán duy nhất của thế kỉ này. Không thiếu các thầy giáo có óc xét đoán trên thế giới người bảo chúng ta phải không giận, chúng ta phải không tham. Họ đơn thuần lặp lại những câu ngạn ngữ sáo mòn của cha ông họ, điều bản thân họ cũng không hiểu.

Gurdjieff sẽ nói cho các đệ tử của ông ấy mang giận của họ ra. Môn đồ đáng thương sẽ bị bối rối. “Nhưng giận là điều tôi muốn gạt bỏ đi. Nó đang phá huỷ tôi,” đệ tử này sẽ nói vậy.

“Ông có làm hả cơn giận của ông một cách đầy đủ không,” Gurdjieff sẽ nói cho anh ta, “Ông có thấy không thể chịu đựng được không. Ông có nhảy ra khỏi nó không?”

Khi nhà bắt lửa, người chạy ra khỏi nó nhanh nhất có thể được. Không ai đợi để truy tìm xem cửa ở đâu, còn ít hơn nhiều là ngồi và suy tư liệu người đó có được hướng dẫn đúng hay không. Khi nhà cháy mọi người bên trong sẽ đơn giản nhảy ra khỏi nó. Người cố thoát theo bất kì cách nào có thể. Anh ta phải tìm đường ra bằng cách nào đó. Điều đó trở thành điều quan trọng nhất. Đường nào, dù nó là phù hợp hay không, không thành vấn đề. Nhớ, chừng nào đường tỏ ra có ý nghĩa hơn, điều đó chỉ ra rằng bạn vẫn còn vô nhận biết về ngọn lửa hoang bên trong. Một khi bạn nhận biết về ngọn lửa bên trong, bạn không thể lưỡng lự, hỏi về đường là gì và bạn có thể đi lối nào tốt nhất. Thế thì mọi điều thành vấn đề là làm sao nhảy ra khỏi đám cháy.

Gurdjieff sẽ nói, “Giận hoàn toàn đi.” Ông ấy sẽ dạy môn đồ cách là giận đầy đủ tới mức không giận nào còn lại bên trong. Ông ấy bảo họ không kìm nén giận của họ theo cách nhẹ nhàng nhất. Điều kì diệu xảy ra cho môn đồ người tuân theo mệnh lệnh này. Anh ta thấy rằng bình thản và yên tĩnh tràn ngập khắp con người anh ta. Mọi thứ trở nên im lặng và an bình, như sau cơn bão.

Cho nên chúng ta trước hết phải hiểu qui tắc này của tự nhiên mà Lão Tử nói tới. Đó là ở chỗ nghỉ ngơi là không tránh khỏi sau từng hoạt động, nếu hoạt động là đầy đủ. Nhưng điều này là không đủ để duy trì bình thản. Việc duy trì bình thản của người ta là việc xảy ra sâu hơn, điều trực tiếp phụ thuộc vào kinh nghiệm đặc biệt. Khi một người nhận ra rằng giận được tiếp theo sau bởi tĩnh lặng, rằng ngày đi theo sau đêm và lại đêm đi theo sau ngày, rằng sáng theo sau tối, và tối lại đi theo sau sáng, và vân vân, người đó đi tới nhận ra vở kịch của các cái đối lập diễn ra khắp xung quanh mình. Thế thì người đó đột nhiên đi tới hiểu rằng “Mình tách rời khỏi trò chơi này của các cái đối lập.”

Nếu tôi có thể thấy giận bất ngờ tới tôi và thế rồi rời khỏi tôi; thế thì, lần nữa, nếu tôi có thể chứng kiến việc tới và đi của giận và an bình có được, điều đó dường như tôi đang ngồi trong phòng và đợi mặt trời lên buổi sáng và lặn buổi tối. Thế thì, tôi có nói vào buổi sáng, “Tôi là sáng” hay tôi nói vào buổi tối, “Tôi là tối” không? Không. Tôi đã trải nghiệm cả sáng và tối; tôi biết cả hai. Tôi là nhân chứng. Tôi quan sát sáng tới và đi. Cũng như vậy vào tối.

Bình thản không có nghĩa là tĩnh lặng. Bình thản là biết điểm giữa nghĩ nhiều và tĩnh lặng. Người nói mình tìm kiếm tĩnh lặng không bao giờ có thể đạt tới bình thản. Nếu bạn ham muốn an bình, cái gì xảy ra cho nghĩ nhiều? Điều có vẻ tốt là nói, “Tôi muốn sáng, tôi không muốn tối. Tôi muốn mặt trời mọc chứ không muốn mặt trời lặn.” Nếu bạn muốn cái này, bạn phải đi qua cái kia. Người muốn an bình phải đi qua rối loạn. Người muốn sinh phải đi qua tử.

Nhưng đây là điều chúng ta làm. Chúng ta muốn sinh nhưng không muốn chết; chúng ta muốn buổi sáng nhưng không muốn buổi tối; chúng ta muốn tuổi trẻ nhưng không muốn tuổi già. Chúng ta chỉ muốn một nửa. Điều đó không thể vậy, vì điều đó không phải là qui tắc của sự tồn tại. Và do đó, chúng ta không bao giờ có thể đạt tới bình thản!

Mọi người muốn an bình và tĩnh lặng; nhưng người ta càng phấn đấu vất vả, việc nghĩ càng trở nên nhiều hơn. Người ham muốn buổi sáng và không ham muốn buổi chiều bắt đầu nghĩ về buổi tối ngay khi buổi sáng tới. Trong khi làm như vậy, người đó mất đi vui thú của buổi sáng bởi việc nghĩ các cách thức và phương tiện để thoát buổi tối. Thế thì, khi buổi tối tới, như nó nhất định là vậy, người đó lại bất hạnh lần nữa. Người đó không bao giờ tận hưởng được vui thú của buổi sáng vì buổi tối xuất hiện cùng với buổi sáng.

Người phấn đấu vì tĩnh lặng thấy bản thân mình sợ hãi và sợ sệt ngay cả ở giữa nó vì người đó sợ người đó có thể làm mất nó vào bất kì khoảnh khắc nào. Thế thì, khi nghĩ nhiều bắt giữ người đó, người đó lại ham muốn tĩnh lặng. Và khi tĩnh lặng tới người đó lại sợ mất nó và do đó không tận hưởng nó. Cho nên, bình thản trở thành không thể được.

Bình thản, sự đồng đều của tính khí, là điều vô giá. Nó ngụ ý rằng khi nghĩ nhiều có đó, người ta biết nó có đó; khi tĩnh lặng có đó, người ta biết nó có đó. Người đã biết các bộ mặt này của nghĩ nhiều một cách điềm tĩnh và biết các mặt tĩnh lặng một cách điềm tĩnh, người đó biết luật của cuộc sống: rằng ngày và đêm tiếp nối lẫn nhau. Người như vậy chấp nhận một cách điềm tĩnh các thời kì của nghĩ nhiều và tĩnh lặng của mình.

Trạng thái này được gọi là trạng thái điềm tĩnh, hay cân bằng. Nó ngụ ý rằng bây giờ cả nghĩ nhiều lẫn an bình không ảnh hưởng tới người đó. Người đó không nhìn tới chúng, cũng không phủ nhận chúng. Bây giờ người đó không ham muốn cái gì. Người đó chỉ quan sát. Người đó là nhân chứng, người chỉ quan sát. Điềm tĩnh xảy ra trong trạng thái chứng kiến. Đây là điềm tĩnh ổn định mà không thể bị phá huỷ bởi nghĩ nhiều hay bị tăng lên bởi tĩnh lặng. Nó là ở giữa cố định giữa hai điều này. Nghĩ nhiều và an bình không phải là các trạng thái ổn định vì chúng là hai mặt của việc xảy ra lớn. Điềm tĩnh là cố định. Nó là ổn định; nó là vĩnh hằng, nó là mãi mãi.

 

 

Câu hỏi 5

 

Thầy đã nói rằng những người đạt tới Đạo coi cuộc sống như nguy hiểm thường xuyên và trở nên thận trọng. Mặt khác, khi thầy nói về Krishna, thầy nói rằng cuộc sống là vở kịch đơn thuần với ông ấy. Ông ấy cười vào cách thức của ông ấy qua cuộc sống. Bất kì cái gì ông ấy làm đều là điệu múa, cuộc vui. Thầy nói rằng hành vi của thánh nhân nhất định là khác. Khác biệt này trong hành vi chúng tôi có thể hiểu nhưng khác biệt trong chính bản tính của Krishna và Lão Tử là khó hiểu. Xin thầy giải thích.

 

Bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu bản tính của Krishna và bạn sẽ không bao giờ hiểu bản tính của Lão Tử. Chỉ Krishna có thể hiểu bản tính của Krishna; chỉ Lão Tử có thể hiểu bản tính của Lão Tử – cũng như một mình bạn có thể hiểu bản tính của bạn. Mọi thứ chúng ta có thể hiểu về người khác là hành vi của người đó, hành động của người đó. Chúng ta chỉ có thể thấy điều Krishna làm. Làm sao chúng ta có thể thấy ông ấy là cái gì? Chúng ta có thể thấy điều Phật làm, điều ông ấy nói, nhưng làm sao chúng ta có thể biết ông ấy là cái gì? Bản tính ngụ ý cái không biểu lộ, ẩn kín bên trong. Và cái đó, bạn không thể thấy. Bạn chỉ có thể thấy hành động.

Phật ngồi một cách trầm lặng còn Krishna thổi sáo. Bạn suy diễn rằng Krishna hạnh phúc vì ông ấy thổi sáo còn Phật không thể hạnh phúc vì ông ấy không thổi sáo; nhưng ông ấy chỉ ngồi với mắt nhắm. Bạn không thể thấy được bản tính của họ, cái là một. Nhưng Phật có cách riêng của ông ấy để biểu lộ bản tính của ông ấy và Krishna có cách riêng của ông ấy. Điều này tuỳ thuộc vào nhân cách cá nhân của họ.

Chẳng hạn, giả sử có mười bóng đèn mầu khác nhau trong phòng này. Dòng điện chạy qua chúng là một, nhưng từng bóng cho ánh sáng khác nhau tương ứng với mầu riêng của nó. Thân thể của Krishna và Phật là những bóng đèn khác nhau, nhưng dòng điện bên trong là như nhau. Bóng đèn có thể được so sánh với nhân cách, và dòng điện được so sánh với năng lượng bên trong. Các nhân cách là khác (như bóng đèn), nhưng năng lượng bên trong (như dòng điện) là một.

Thân thể của Krishna là bóng đèn của ông ấy; thân thể của Lão Tử là bóng đèn của ông ấy. Đây là các nhân cách. Bản tính bên trong cả hai người là một, nhưng bạn không thể thấy nó. Chỉ khi bản thân bạn đi vào bên trong bạn sẽ khám phá ra rằng bản tính này là không mầu – không xanh không đỏ không vàng. Cái mà xuất hiện là Phật là nhân cách của Phật; cái mà xuất hiện là Krishna là nhân cách của Krishna. Các nhân cách có thể được thấy, hành vi có thể được quan sát, nhưng cái xảy ra bên trong là không thấy được.

Nếu chúng ta đổi lẫn các bóng đèn chúng ta sẽ thấy rằng điều đó không tạo ra khác biệt cho dòng điện nếu, nơi đã là bóng xanh, giờ có ánh sáng đỏ. Nếu mà có thể thay đổi nhân cách, chúng ta muốn thấy Phật thổi sáo với cùng vui vẻ phóng túng như Krishna, và Krishna ngồi im lặng và thanh thản dưới cây. Nhưng may sao điều này không trong tay chúng ta. Tuy thế vấn đề lại ở trong tay chúng ta để đi vào bên trong bóng đèn riêng của chúng ta và quan sát bản tính riêng của chúng ta. Thế thì chúng ta sẽ thấy cái đó, bên trong bản tính đó, mọi thứ là yên tĩnh, thanh thản; không có hình thể, không hình dạng. Nhưng để biểu lộ cái vô hình thể này, chúng ta phải dùng thân thể, tâm trí.

Phật đã nói tiếng Pali vì đó là ngôn ngữ ông ấy biết. Krishna dã nói tiếng Phạn vì đó là ngôn ngữ thịnh hành vào thời ông ấy. Jesus đã nói tiếng Do Thái vì đó là ngôn ngữ của ông ấy. Nhưng chân lí thì không trong tiếng Pali không trong tiếng Phạn không trong tiếng Do Thái. Nếu bạn nghĩ chân lí là trong tiếng Phạn, thế thì khi nó được nói trong tiếng Do Thái, nó sẽ trở thành phi chân lí. Nhưng khi Jesus trải nghiệm chân lí, nó có ở dưới dạng tiếng Do Thái – hay, trong trường hợp của Krishna, trong tiếng Phạn, và trong trường hợp của Phật, trong tiếng Pali không? Không. Khi chân lí được trải nghiệm, không có tiếng Pali không tiếng Sanskrit không tiếng Do Thái bên trong. Mọi lời bị mất, mọi ngôn ngữ tan biến và sự tồn tại vô hạn được trải nghiệm như im lặng lớn lao và rỗng bên trong.

Khi một người nhận ra chân lí, mọi ngôn ngữ bị mất bên trong. Nhưng khi chân lí này cần được diễn đạt, ngôn ngữ nào đó phải được dùng. Phật đã không thể diễn đạt trong tiếng Phạn, mà Krishna cũng không diễn đạt được trong tiếng Pali. Từng người chỉ có thể diễn đạt trong ngôn ngữ riêng của mình. Ngôn ngữ là một phần của tính cá nhân.

Các khía cạnh phủ định hay khẳng định là một phần của tính cá nhân của một người. Dù nhảy múa hay ca hát hay im lặng tất cả đều là một phần của tính cá nhân của một người. Nhưng trải nghiệm bên trong ở bên ngoài tất cả những điều này. Tuy nhiên điều này chúng ta không thể thấy, và do đó không có khả năng hiểu. Chúng ta sẽ chỉ hiểu điều này khi chúng ta nghiên cứu sâu bên trong bản tính riêng của chúng ta, không trước điều đó.

Chúng ta bị buộc quan sát sự khác biệt này vì từ chỗ chúng ta đang đứng, không có cách nào để thấy cái dị biệt. Để trải nghiệm cái dị biệt bạn sẽ phải được đặt vào bên trong bản thân bạn ở trung tâm, nơi mọi nguyên nhân tạo ra khác biệt và dị biệt tan biến.

Giả sử tôi có một trăm tờ giấy trắng. Sẽ không có khác biệt giữa chúng. Bây giờ nếu như tôi đưa cho một trăm người mỗi người một mảnh giấy và yêu cầu họ vẽ một bức tranh về người, một trăm tờ giấy này sẽ trở thành một trăm bức tranh và không có hai bức tranh nào là giống nhau. Từng tờ giấy trở thành khác với số còn lại. Bức tranh do Picasso vẽ sẽ bán được hàng nghìn rupi nhưng bức tranh bạn vẽ sẽ không được chấp nhận ngay cả như giấy bị thải loại; và vậy mà giấy trong cả hai trường hợp sẽ vẫn là như nhau. Chúng là bình đẳng với nhau về giá trị chừng nào chúng vẫn còn bỏ trắng. Ngay khi chúng ta dán tính cá nhân của chúng ta lên nó, giá trị của nó thay đổi: giấy của Picasso trở nên có giá trị hơn, còn giấy của chúng ta được hoặc mất giá trị tương ứng theo nhân cách cá nhân của chúng ta.

Phật, Jesus và Lão Tử là tờ giấy trắng bên trong, nhưng ngay khi chúng ta thấy chúng từ bên ngoài, chúng hình thành nên bức tranh, bức tranh về tính cá nhân của họ. Bức tranh này không vẽ chân dung sự tồn tại; nó là tính cá nhân đặc biệt của họ.

Từ “cá nhân” là từ rất có nghĩa. Nó không ngụ ý cái được ẩn bên trong. Thay vì thế, nó là đặc trưng của cái được diễn đạt qua trung gian. Ngọn lửa cháy qua chiếc đèn. Ánh sáng mờ vì bóng đèn bị che phủ bởi muội. Có chiếc đèn khác với kính sạch, trong. Ánh sáng của nó là sáng hơn. Cái tên bên trong là một; khác biệt là ở kính của bóng đèn. Tính cá nhân có thể mờ đi hay sáng hơn lên, điều tới từ bên trong.

Khi Kabir nói, ông ấy chỉ có thể nói ngôn ngữ của thợ dệt. Mọi biểu tượng và so sánh của ông ấy liên quan tới việc dệt, vì cả đời mình ông ấy đã là thợ dệt. Do đó ông ấy có thể hát, “Tôi đã dệt tấm ga mịn màng thế, mịn màng thế!” Phật không bao giờ có thể nói một điều như vậy vì ông ấy không có ý tưởng gì về việc dệt, mà bố của ông ấy cũng chẳng liên quan gì tới việc dệt. Một mình Kabir có thể nói trong ngôn ngữ này vì cả đời mình ông ấy đã là thợ dệt. Ngôn ngữ của Kabir là khó nghe và thô thiển; có sự thô ráp sắc cạnh trong nó. Khi Phật nói, cho dù ông ấy khiển trách một người, cứ dường như ông ấy đang tung hoa vào người đó. Có cái đẹp uy nghi trong việc nói của ông ấy.

Sự gần gũi chúng ta trải nghiệm trong lời của Jesus và Mohammed là hoàn toàn vắng bóng trong những người khác. Có lí do cho điều này. Cả Jesus và Mohammed đều là những dân làng không có giáo dục. Dân làng có rất ít từ để dùng, và những từ này nữa cũng không được tao nhã. Chúng giống như những tảng đá không gọt giũa, xù xì. Ngôn ngữ dưới sự làm chủ của Phật hay Mahavira giống như đá được chạm khắc thành ảnh đẹp. Không có gì ngạc nhiên là Jesus và Mohammed đã xuyên thấu sâu vào bên trong quần chúng còn Mahavira và Phật bị tụt lại sau. Lời của Jesus và Mohammed hấp dẫn quần chúng vì ngôn ngữ của họ dễ hiểu; giáo huấn của họ là đủ đơn giản cho người thường.

Khó mà đi theo các giáo huấn của Phật và Mahavira. Chúng dường như xa xôi thế với người thường, dường như họ đang nói từ đỉnh núi. Có vực thẳm giữa họ và người thường. Điều này là vì khác biệt trong các nhân cách.

Ngoài ra, nếu Mahavira hay Phật nói ngôn ngữ của Jesus hay Mohammed ở Ấn Độ, không chắc ai đã nghe họ vì nước này vào thời đó, đang ở tột đỉnh của văn hoá của nó.

Ngoài ra nếu mà Mohammed phạm sai lầm đi nói cho người của ông ấy theo cùng giọng điệu như Phật, chắc không ai đã để ý tới ông ấy. Những người trong số người nghe ông ấy nói đã là những người sa mạc man di, người tin vào qui tắc của kiếm. Họ chỉ có thể hiểu các thứ đi đôi với kiếm và không cái gì khác.

Nhân cách, và thời gian và tình huống, chúng ta có thể thấy và hiểu. Không phải như vậy với sự tồn tại bên trong. Nhưng đừng lo nghĩ quá nhiều về việc này. Nếu bạn bắt đầu có ý tưởng về khác biệt giữa cá nhân và sự tồn tại, bạn sẽ dần bắt đầu tìm vào bên trong. Và ngày bạn khám phá ra tính cá nhân của bạn là tách rời khỏi sự tồn tại của bạn, những cánh cửa bên trong sẽ mở ra và bạn sẽ có khả năng nhìn vào bên trong. Phật chỉ là y phục bên ngoài. Lão Tử cũng vậy. Jesus và Mohammed cũng vậy. Cái được ẩn kín bên trong y phục là tách rời hoàn toàn khỏi chúng.

Đừng nghĩ về sự tồn tại dưới dạng quần áo bên ngoài. Nhưng hỡi ôi, chúng ta có thể làm được gì? Chúng ta nghĩ chỉ dưới dạng cái bên ngoài; chúng ta không có khái niệm về bên trong là gì. Đi ra ngoài quần áo và xem cái gì nằm ẩn bên dưới. Thế thì bạn sẽ có khả năng đi ra ngoài mọi quần áo, mọi thứ che phủ, và thấy một sự tồn tại.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.14, Chờ đợi vô tư, chết của tự cao và cái một trong cái nhiều

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471