Hoa nở buổi sáng và héo buổi tối. Mặt trời mọc buổi sáng và lặn buổi tối. Có sinh và nó kết thúc trong tử. Mọi việc xảy ra đều có bắt đầu và kết thúc. Nhưng sự tồn tại bao giờ cũng hiện hữu. Không có buổi sáng, không có buổi tối cho sự tồn tại, không sinh không tử. Trong lời kinh này, Lão Tử nói cho chúng ta về cái vô thuỷ, sự liên tục vô hạn của tự nhiên, của sự tồn tại, cái ở bên ngoài cả sinh và tử.
Bất kì cái gì chúng ta biết, chúng ta có thể bao quanh bên trong một giới hạn. Ở đầu này của biên giới có cái bắt đầu của nó, và ở đầu kia, cái kết thúc của nó. Mọi thứ có thể được chứa bên trong các biên giới có thể được định nghĩa. Định nghĩa chỉ có nghĩa là cái mà chúng ta có thể bao quanh bên trong ý nghĩ của chúng ta. Nhưng không thể nào định nghĩa được cái không có bắt đầu và không có kết thúc, vì một lẽ đơn giản rằng chúng ta không thể hạn chế nó bên trong chu vi các ý nghĩ của chúng ta. Chúng ta phải vẽ ra đường biên ở đâu và chúng ta phải kết thúc nó ở đâu? Do đó, sự tồn tại không bao giờ có thể được định nghĩa. Các vật tồn tại có thể được định nghĩa, nhưng bản thân sự tồn tại thì không.
Chúng ta hãy hiểu điều đó theo cách này. Lời kinh này khá khó, cho nên chúng ta sẽ phải mở bí mật của nó ra từ nhiều phía. Chúng ta nhìn thấy hoa và chúng ta nói nó là đẹp. Trăng ló ra trên trời và chúng ta nói nó là đẹp; chúng ta thích một khuôn mặt và chúng ta nói nó là đẹp; nhạc nào đó chạm vào dây đàn của tim chúng ta và chúng ta nói nó là hay. Nhưng bạn đã bao giờ thấy cái đẹp chưa? Bài ca nào đó là hay, hoa nào đó là đẹp, sao nào đó trên trời. Bạn đã thấy nhiều thứ là đẹp, nhưng bạn có thấy bản thân cái đẹp không? Thế thì khó khăn nảy sinh. Nếu bạn chưa bao giờ thấy cái đẹp, làm sao bạn có thể nói một thứ nào đó là đẹp? Bạn nhìn thấy cái đẹp trong hoa, nhưng bạn không bao giờ thấy bản thân cái đẹp. Cái đẹp của hoa nở buổi sáng và héo đi bởi chiều tối. Một khuôn mặt xuất hiện đẹp hôm nay, nhưng ngày mai cái đẹp này tan biến. Cái hiện hữu ở đây hôm nay bị mất đi ngày mai: cái bạn đã thấy vào buổi sáng bị mất đi vào buổi tối. Bạn có thấy ‘cái đó’ bên ngoài các vật không? Bạn đã bao giờ thấy cái đẹp thuần khiết không? Bạn đã thấy những vật đẹp nhưng không thấy cái đẹp.
Hoa có thể được định nghĩa – nó có hình thể riêng, hình dạng riêng, dấu hiệu nhận dạng riêng của nó. Nhưng bản thân cái đẹp không thể được định nghĩa. Nó không có biên giới, nó không có hình thể, không có dấu hiệu nhận dạng. Và vậy mà chúng ta nhận ra nó, bằng không làm sao chúng ta có thể nói hoa là đẹp? Nhưng nếu một mình hoa là đẹp, trăng ban đêm cũng không thể là đẹp, vì có cái gì chung giữa hoa và trăng nào? Điều này ngụ ý rằng đẹp là cái ở trong hoa, trong trăng, trong mắt và vậy mà tách rời – nó là cái gì đó khác với mọi thứ này. Mắt có vẻ đẹp một khoảnh khắc trước, rồi có vẻ khó nhìn và xấu với giận một khoảnh khắc sau. Cùng mắt có vẻ đẹp, giờ là xấu – cái gì đó đã bị mất. Điều này chứng tỏ rằng đẹp không phải là hoa hay trăng hay mắt; đẹp là cái gì đó khác. Bạn đã gặp nó mặt đối mặt chưa? Không bao giờ.
Chúng ta không bao giờ thấy cái đẹp, không bao giờ biết nó, do đó đẹp không thể được định nghĩa. Và vậy mà, chúng ta nhận ra cái đẹp. Khi huyền của đẹp đi vào hoa, khi sự dịu dàng và âu yếm của nó thấm vào bên trong hoa, chúng ta nói hoa là đáng yêu. Khi cùng huyền này đi vào trong mắt của ai đó, mắt hiện ra đẹp. Khi cùng huyền này biểu lộ bên trong các nốt nhạc của một giai điệu, nó cho âm thanh dịu ngọt với tai. Nhưng đẹp này là gì, sự đơn độc này? Hoa có thể được định nghĩa, trăng và mắt cũng có thể là vậy, nhưng đẹp là gì? Nó là không thể định nghĩa được. Tại sao? Tại sao chúng ta không thể định nghĩa đẹp?
Chúng ta biết đẹp là gì. Chúng ta bắt gặp nó trên con đường không biết nào đó. Nó đi vào tim chúng ta theo cách không biết nào đó và nó làm xúc động hồn chúng ta theo cách không biết nào đó. Và vậy mà, chúng ta không biết nó là gì. Bất kì khi nào trí tuệ cố hiểu thấu nó chúng ta thấy nó bị mất. Nó là cái gì đó giống thế này. Tối chất đầy căn phòng. Chúng ta đem đèn vào để xem liệu tối ở đâu – và nó bị mất! Bất kì chỗ nào có bao la bát ngát, nếu chúng ta tiến tới nó bằng trí tuệ của chúng ta, nó biến mất. Trí tuệ chỉ có thể nhận ra các thứ bên trong biên giới của nó. Trí tuệ chỉ có thể biết cái có ranh giới. Một vật có thể tới bên trong hiểu thấu của việc hiểu của chúng ta chỉ khi trí tuệ có thể quyết định các giới hạn của nó – chỉ khi nó có thể hình thành ngoại vi của nó và phân chia nó thành các bộ phận. Do đó, chính trí tuệ liên tục phân chia mọi thứ thành các phần ngày càng nhỏ hơn. Phần càng nhỏ, việc hiểu càng sâu hơn.
Khoa học đã đạt tới nguyên tử. Việc hiểu của nó về nguyên tử là sâu sắc, trong khi sự mở rộng bao la ở bên ngoài việc hiểu thấu của nó. Vật càng nhỏ, trí tuệ càng có thể lĩnh hội nó tốt hơn. Vì giờ đây khoa học đã phân tích nguyên tử, nó cũng đã phân chia nguyên tử thành điện tử, proton và neutron. Trí tuệ thành thạo phân chia những thứ này còn xa thêm nữa; vì một thứ càng nhỏ, nó càng có thể được xem xét và định nghĩa rõ hơn. Việc mở rộng càng lớn, càng ít có khả năng cho mắt tìm ra đầu cuối của nó; và khi trí tuệ không thể đo được, nó rơi vào khó khăn và đi lạc lối.
Lão Tử nói, “Không cái gì được sáng lên khi nó xuất hiện, và không cái gì bị tối đi khi nó biến mất.” Huyền bất tử, không đứt quãng như vậy thách thức mọi định nghĩa. Nó bao giờ cũng vậy; nó là vĩnh hằng. Mặt trời mọc và lặn, hoa nở và chết, sống tới và đi, tạo ra hình thể và phai mờ. Vũ trụ được tạo ra và bị tiêu diệt, nhưng Thượng đế bao giờ cũng hiện hữu. Cái gì đó đó, bằng bất kì cái tên nào chúng ta có thể gọi nó, bao giờ cũng hiện hữu. Nó không bao giờ được sinh, nó không bao giờ chết, nó là vĩnh hằng. Đây là sự tồn tại thuần khiết.
Tôi đã nói với bạn về cái đẹp để cho bạn có thể hiểu sự tồn tại. Chúng ta chưa bao giờ nhìn thấy sự tồn tại. Nhưng chúng ta đã thấy hay trải nghiệm bằng chứng về sự tồn tại: chúng ta thấy cây, sông, người, mặt trời, mặt trăng. Tất cả chúng đều có sự tồn tại, nhưng sự tồn tại như vậy, chúng ta không bao giờ trải nghiệm, chỉ trải nghiệm các vật của sự tồn tại. Nhưng các vật tồn tại, toàn là nhất thời.
Chúng ta hãy cố gắng và hiểu điều này, vì đây là một trong những câu hỏi sâu sắc nhất của triết học. Các triết gia vĩ đại nhất trong lịch sử con người đã xem xét câu hỏi này từ rất lâu. Chúng ta nói “Đây là bàn, đây là người, đây là nhà, là hoa, sao vân vân.” Những thứ này hiện hữu, nhưng chúng có là sự tồn tại không? Sự tồn tại, tính hiện hữu, việc xảy ra của sự tồn tại, là ở trong mọi thứ và vậy mà chúng ta không thể thấy được nó. Bây giờ, giả sử chúng ta phá cái bàn ra. Có hai thứ: bàn và sự tồn tại của nó. Hoa đã hiện hữu; bây giờ nó không còn nữa. Hoa không còn nữa, nhưng sự tồn tại bên trong hoa – chúng ta có phá huỷ nó nữa không? Chúng ta chưa bao giờ thấy sự tồn tại, chúng ta chỉ thấy các vật. Có một người, người đó chết. Có hai điều trong một người: có thân thể người đó, được làm từ thịt và xương, và có bản thể của người đó. Thân thể chết và bụi trở về với bụi, nhưng bản thể của người đó – cái đó cũng chết sao?
Khi chúng ta vò nát hoa, nhớ rằng chúng ta chỉ vò hoa chứ không vò cái đẹp của nó. Làm sao chúng ta có thể phá huỷ được cái mà chúng ta đã không bao giờ thấy, không bao giờ hiểu thấu, thậm chí không bao giờ chạm tới? Làm sao chúng ta có thể phá huỷ cái ở bên ngoài quan niệm của các giác quan của chúng ta? Chúng ta có thể phá huỷ hoa hay làm mù mắt, nhưng chúng ta không thể phá huỷ cái đẹp lọt ra từ đằng sau hoa hay sáng lên qua mắt. Mặt trời được hình thành và tan biến, sáng tạo tới và đi, người được sinh ra và họ chết đi nhưng bản thể này bên trong họ, sự tồn tại này, hiện hữu mãi mãi – nó chảy mãi mãi.
Lão Tử nói, “Biểu lộ của nó không đem tới sáng, sự biến mất của nó cũng không đẩy mọi thứ vào tối” – vì nó không mọc ra không lặn đi. Chúng ta không biết nó bởi các thứ xuất hiện và biến mất, vì nó là sâu hơn những cái đó. Cái mà không biểu lộ bản thân nó ngay cả trong ánh sáng của mặt trời, và cái mà không lặn đi với việc lặn của mặt trời – một mình cái đó hiện hữu. Cái mà không hiện hữu khi hoa hiện hữu, và cái mà không tắt ngấm khi hoa không hiện hữu – một mình cái đó hiện hữu. Cái mà không được sinh ra vào lúc sinh và cái mà không chết đi vào lúc chết – một mình cái đó hiện hữu.
Khi một người được sinh ra, đường biên đầu tiên được vẽ ra. Người nào đó Rama được sinh ra. Chúng ta vẽ ra một đường: người đó đã được sinh ra vào ngày như vậy và như vậy. Thế rồi người này chết. Chúng ta vẽ ra một đường khác: người đó chết vào ngày như vậy như vậy. Đây là biên giới bên trong đó cá nhân Rama tồn tại. Nhưng nó không phải là biên giới của sự tồn tại. Chúng ta hãy đi sâu hơn chút ít và có lẽ chúng ta sẽ hiểu.
Ngày nào bạn gọi là ngày sinh của bạn? Đây là câu hỏi đáng tranh cãi. Đó là ngày bạn đã được sinh ra, hay đó là ngày bạn được thụ thai trong bụng mẹ bạn? Nói chung, ngày đứa trẻ được sinh ra được coi là ngày sinh. Thế thì chúng ta phải gọi ngày việc thụ thai xảy ra là gì? Chúng ta có thể quay ngược lại chút ít và nói việc sinh xảy ra vào ngày thụ thai.
Chúng ta lại đi sâu hơn nữa. Một nửa phôi đã hiện diện trong người mẹ từ lâu trước khi thụ thai và nửa kia trong người bố từ lâu trước khi thụ thai. Việc bắt đầu của sinh, theo khoa học, xảy ra bởi việc gặp gỡ của chúng. Cho nên việc xảy ra sinh này là việc gặp gỡ của hai sự sống đã tồn tại. Thế thì điều này không phải là bắt đầu, vì cả hai sự sống đã hiện diện: một được ẩn trong người bố, và một trong người mẹ. Sự hợp nhất của họ mang sự sống mới vào hiện hữu. Đây là bắt đầu của sự sống của một cá nhân, Rama chẳng hạn. Nhưng đây không phải là bắt đầu của sự tồn tại của cá nhân đó, vì sự tồn tại của người đó nằm ẩn bên trong bố và mẹ người đó – nó đã hiện diện và sống đầy đủ. Nó biểu lộ bản thân nó trong việc hợp nhất của bố và mẹ nó.
Chúng ta lại đi lùi thậm chí thêm nữa. Cái được ẩn bên trong người bố đã được ẩn bên trong bố mẹ của người bố. Cái được ẩn trong người mẹ đã được ẩn bên trong bố mẹ của người mẹ. Và như vậy chúng đi đi ngược lại, ngược lại xa hơn. Thế thì câu hỏi nảy sinh: khi nào sự sống này thực tại bắt đầu? Khi bạn được sinh ra là việc sinh của bạn, nhưng sự sống bên trong bạn đã không được sinh ra cùng bạn. Nếu chúng ta đi lùi lại ngày càng xa hơn, mọi lịch sử quá khứ của thế giới, mọi cái biết và không biết, sẽ bị vét cạn; và vậy mà huyền này sẽ vẫn còn không được giải. Bạn đã sống bên trong người thứ nhất ở trên trái đất. Nhưng làm sao người đó đã đi tới hiện hữu? Để người đó hiện hữu, điều bắt buộc là sự tồn tại phải đã hiện hữu trước người đó.
Cho nên sự tồn tại là sự liên tục. Sinh là việc xảy ra đơn giản, theo khoa học, nhưng phức tạp hơn theo tôn giáo. Hạt nhân được hình thành bởi sự hợp nhất của mẹ và bố đơn thuần chỉ là việc bắt đầu của thân thể. Hồn đi vào thân thể này.
Do đó, khi bố của Phật bảo ông ấy rằng ông ta đã cho sinh ra ông ấy, và ông ta là bố, ông ấy đã đáp lại, “Con được sinh ra qua bố, nhưng bố đã không cho việc sinh ra con. Con tới qua bố, bố đã là cánh cửa qua đó con đi vào, nhưng bố đã không tạo ra con. Con đã hiện hữu, ngay cả khi bố không hiện hữu. Bố cung cấp lối chuyển cho con và con đã xuất hiện, nhưng cuộc hành trình của con đã rất khác với cuộc hành trình của bố.”
Bố ông ấy đã không hài lòng với ông ấy, vì Phật đã đi ăn xin trong chính nước mà ông ta là vua. Bố ông ấy cố thuyết phục ông ấy. Ông ta nói, “Siddhartha, không ai trong gia đình chúng ta đã bao giờ đi ăn xin.”
Phật đáp. “Con không biết gì về gia đình của bố nhưng cứ như con nhớ các hành trình quá khứ của con, con bao giờ cũng là người ăn xin. Trong kiếp trước, và trong những kiếp trước nó nữa, con bao giờ cũng đi ăn xin. Con là người ăn xin rất cổ đại. Về bố, con không biết gì.”
Hai người nói chuyện trong các ngôn ngữ khác nhau. Họ đã không bao giờ đi tới các thuật ngữ chung. Bố của Phật nói ngôn ngữ của khoa học, của logic, trong khi Phật nói ngôn ngữ của tôn giáo. Từ góc độ tôn giáo, việc xảy ra của sự sống mà xảy ra trong bụng mẹ là vô hạn. Hồn đi vào trong sự sống cũng vô hạn. Chính sự hợp nhất của hai cái vô hạn ở bên trong bụng người mẹ.
Cho nên, theo nghĩa này, tôi bao giờ cũng hiện hữu. Mọi hạt của thân thể tôi bao giờ cũng hiện hữu. Mọi hạt của hồn tôi bao giờ cũng hiện hữu. Đã không có một khoảnh khắc nào trong sự tồn tại này mà bạn đã vô hiện hữu hay tôi đã vô hiện hữu. Hình thể có thể là khác, hình dáng có thể là khác, và cả cái tên cũng vậy, vậy mà không bao giờ có khoảng khắc nào mà tôi và bạn đã vô hiện hữu, cũng sẽ không bao giờ có khoảnh khắc như vậy. Bạn đã được sinh ra nhiều lần rồi; bạn chết nhiều lần rồi. Lão Tử nói, “Trên nó thì không sáng, dưới nó lại không tối, dài dằng dặc mà không có tên.” Bạn có thể được xác định – tên của bạn, bạn tới từ chỗ nào, nơi bạn sống. Bạn có thể được xác định. Nhưng làm sao sự tồn tại vô hạn biểu lộ trong bạn là được định nghĩa?
Mọi người sẽ hỏi Phật tên ông ấy là gì. Ông ấy đã rời bỏ cung điện, vương quốc và bắt đầu đi lang thang vào những chỗ không biết, nơi không ai biết ông ấy. Nhưng chính nhân cách của ông ấy đã hấp dẫn sự chú ý, vì cái đẹp vô song của nó đã không thể vẫn còn ẩn kín đằng sau bộ quần áo của người ăn xin. Và khi mọi người hỏi ông ấy từ đâu tới và tên ông ấy là gì, ông ấy chắc sẽ nói, “Tôi sẽ nói cho ông tên nào của tôi, vì tôi đã được sinh ra nhiều lần rồi. Lúc thì tôi đã là người, lúc thì là con vật và lúc thì thậm chí là cây. Ông muốn biết tên nào của tôi?” Chính điều tự nhiên là những người đã hỏi ông ấy phải đã coi ông ấy là người điên. “Tôi phải nói cho ông tên nào?”
Người mà trong người đó hiểu biết về sự tồn tại bắt đầu có, thấy bản thân mình trong nhiều khó khăn với người từng trải; vì thế thì người đó khám phá ra rằng không định nghĩa nào có tác dụng. Khi trật tự các vật bắt đầu đạt tới chiều vô hạn, mọi định nghĩa vỡ ra, sụp đổ thành từng mảnh.
Sự tồn tại là bất tử, không vét cạn. Mọi vật xảy ra, mọi vật mất đi, nhưng sự tồn tại vẫn còn mãi mãi.
Tại sao sự tồn tại là không thể định nghĩa được? Vì nó là vô biên, vô hạn. Không thể nào nghiên cứu nó đầy đủ được. Không phải là phương tiện nghiên cứu của chúng ta là nghèo nàn, nhưng vì sự tồn tại không có bắt đầu và không có kết thúc.
Ki tô giáo đã quyết định ngày sinh lịch sử của thế giới. Những người tìm kiếm Ki tô giáo xác nhận rằng thế giới bắt đầu 4000 năm trước Christ. Những người làm việc về điều này thậm chí đã tính ra thời gian đích xác. Họ nói rằng 4004 năm trước, vào 9 giờ sáng, thế giới đã đi vào hiện hữu. Họ thậm chí đã nhắc tới cả phút và giây! Nhưng khi khoa học nhìn vào vấn đề này, Ki tô giáo đã bị chứng minh là sai và mọi phát hiện của nó đã bị chứng minh là ngây thơ. Các nhà khoa học đã khám phá ra rằng trái đất ít nhất đã có bốn nghìn triệu năm tuổi. Số 4004 năm, nhiều giờ thế và nhiều phút thế đã tuyệt đối ấu trĩ. Đây là cú đấm nặng cân cho Ki tô giáo, mặc dầu nó chẳng liên quan gì tới Ki tô giáo. Nếu chúng ta nghiên cứu tôn giáo theo cảnh quan đúng, chúng ta thấy rằng tôn giáo không thể nói được từ đâu và khi nào mọi thứ bắt đầu và khi nào chúng kết thúc. Tôn giáo chỉ tin vào điều này; rằng bất kì cái gì hiện hữu, thì hiện hữu. Nó không bắt đầu không kết thúc. Sự tồn tại và vô thuỷ và vô chung; nó là vô hạn. Vậy khoa học không cãi lại quan điểm của Lão Tử. Lão Tử nói, “Chúng ta chấp nhận sự tồn tại bất tử, cái không bao giờ bắt đầu và sẽ không bao giờ dừng lại.” Điều thế giới đã bắt đầu từ 4000 năm trước là phát biểu ấu trĩ nhưng phát biểu hiện tại rằng thế giới đã bốn nghìn triệu năm tuổi cũng là ấu trĩ. Việc mở rộng thời gian không tạo ra khác biệt. Dù đó là bốn nghìn hay bốn nghìn triệu, Lão Tử nói rằng mọi thứ không thể bắt đầu trong thế giới này; sự tồn tại bao giờ cũng hiện hữu. Hình thể và hình dạng có thể thay đổi, nhưng cái nằm ẩn đằng sau những hình thể này là vĩnh hằng; nó kéo dài mãi.
Yếu tố không biết này của sự tồn tại đi vào trong trạng thái rỗng hết lần này tới lần khác. Với Lão Tử, trạng thái vô hiện hữu cũng là sự tồn tại (hiện hữu). Với Lão Tử trạng thái hiện hữu và vô hiện hữu là hai mặt của sự tồn tại.
Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.11 Ảnh của cái vĩnh hằng và cái vô hình thể, cái cổ đại và cái trống rỗng