Hai cách sống

Có hai cách thức của sự tồn tại.

Một cách là sống dường như tôi là trung tâm của toàn vũ trụ. Sống dường như toàn thế giới đã được tạo ra cho tôi; dường như tôi là Thượng đế và mọi người khúm núm với tôi. Đây là một cách sống. Cách thứ hai là đích xác đối lập với cách này: Sống dường như tôi không bao giờ là trung tâm của vũ trụ, thay vì thế, tôi là một điểm trên chu vi của nó. Sống dường như mọi người là Thượng đế và tôi là người phục vụ đơn thuần của nó.

Hai cách sống này là khác biệt giữa người tôn giáo và người phi tôn giáo. Người phi tôn giáo coi bản thân mình là Thượng đế và mọi thế giới là nô lệ của người đó. Người đó sống dường như thế giới được tạo ra cho một mình việc khai thác của người đó. Người tôn giáo sống ngược lại hoàn toàn với điều này – dường như người đó không hiện hữu. Thế giới hiện hữu, người đó không hiện hữu.

Hai cách sống này có những kết quả khác nhau.

Lão Tử nói, “ Trời dài đất lâu” – vĩnh hằng. Khoảng sống của chúng là rất lâu. Lí do gì mà chúng tồn tại lâu thế? Chính là vì chúng không tồn tại cho bản thân chúng. Một người càng sống cho bản thân người đó, người đó càng trở nên căng thẳng hơn. Cuộc sống của người đó bị chất đầy với lo âu và đau khổ và những điều này đến lượt chúng sẽ làm ngắn lại cuộc sống của người đó. Lo âu cắt ngắn cuộc sống, làm yếu nó đi. Người càng ít sống cho bản thân mình, người đó sẽ càng tự do hơn, không gánh nặng, không căng thẳng và nhiều thảnh thơi hơn. Nếu vài điều được giải thích, lời kinh này sẽ dễ hiểu hơn.

Đứa trẻ trong bụng mẹ, ngủ trong chín tháng. Khi nó được sinh ra, nó ngủ trong 23 giờ và thức trong một giờ trong một ngày. Thế rồi dần dần, nó ngủ trong 22 giờ, thế rồi 20 giờ. Dần dần giấc ngủ của nó cứ ngày càng ít đi và thời kì thức của nó trở nên càng nhiều hơn. Khi một người vào trung tuần, người đó ngủ tám giờ, thế rồi sáu, thế rồi bốn. Trong tuổi già, người đó không thể ngủ được nhiều hơn hai giờ. Có lẽ bạn chưa bao giờ nghĩ tại sao đứa trẻ cần ngủ nhiều và người già cần ngủ ít?

Khi sự sống được tạo ra, việc nhớ cái ngã phải hoàn toàn vắng bóng. Việc nhớ cái ngã trở thành cản trở trong sự phát triển của sự tồn tại. Khi đứa trẻ phát triển trong bụng mẹ, tự nhiên giữ nó ngủ để cho đứa trẻ không trở nên ý thức tới bản ngã. Ngay khi ý nghĩ này tới bên trong đứa trẻ, sự phát triển bắt đầu bị cản trở. Cái ‘tôi’ trở thành gánh nặng lên sự tồn tại. Khi bản ngã phát triển, ngủ trở nên ngày càng ít đi cho tới tuổi già, nó gần như mất đi. Bây giờ chết ở gần và không có phát triển thêm trong sống. Thay vì thế, sống bây giờ mờ nhạt đi. Người già có thể vẫn còn thức cả hai mươi bốn giờ nhưng trẻ em thì không thể.

Các bác sĩ nói rằng nếu bệnh nhân không thể ngủ được, khó mà chữa cho người đó. Cho nên điều đầu tiên họ chú tâm là giấc ngủ của bệnh nhân. Nếu người đó ngủ tốt, bệnh có thể được chữa. Tại sao? Trong ngủ người đó quên đi cái ‘tôi’ của mình. Vì chừng nào người đó còn quên bản ngã, sự sống trở nên nhẹ, vô trọng lượng. Thế thì mọi quá trình của sự sống có thể làm việc không bị cản trở. Nếu một người không thể ngủ được khi người đó ốm, việc không ngủ của người đó là nguy hiểm hơn bệnh của người đó vì lo âu sẽ bao quanh người đó suốt hai mươi bốn giờ.

Bạn cảm thấy tươi tắn và sảng khoái sau giấc ngủ tám giờ trong đêm. Lí do chỉ là thế này, rằng bạn đã tự do khỏi bản ngã của bạn trong tám giờ. Nếu một người đã lấy vui thú từ chất gây say, lí do chỉ là thế này: người đó cần phải quên bản thân mình vào nhiều lúc vì nhiều lo âu thế và nhiều bản ngã thế, không thể nào sống được. Rượu và ma tuý không thể bị trục xuất khỏi thế giới chừng nào chưa tới thời điểm mà toàn thế giới trở nên sẵn sàng cho thiền.

Chỉ có hai cách gạt bỏ bản ngã. Hoặc bạn nhận chìm bản thân bạn trong thiền, sao cho nhiều tới mức Lão Tử nói rằng bạn dừng sống vì bản thân bạn, hay bạn làm cho bạn thành vô ý thức một cách bắt buộc bằng thuốc hoá chất, cái ‘tôi’ không thể bị thủ tiêu bởi các chất gây say. Nó chỉ có thể bị quên đi lúc nào đó. Chừng nào nó còn bị quên, bạn cảm thấy tốt nhưng ngay khi tác động này mờ nhạt đi, bản ngã đứng dậy với sự cường tráng gấp đôi. Nó sẽ báo thù vì bị kìm nén lâu thế.

Khi bản ngã của người tăng lên, thế giới phải phát minh ra nhiều phương cách hơn để trở nên vô ý thức. Một nước càng được văn minh, nó càng có nhiều chất gây say. Bây giờ chúng ta phải khám phá ra những thứ mới như cần sa, thuốc gây ảo giác, L.S.D. Người muốn quên bản thân mình bằng cách nào đó. Tại sao sau rốt, người nhận nhiều phiền phức thế để quên bản thân mình?

Lão Tử nói, “Trời đất sở dĩ dài lâu, là vì không sống cho mình, nên mới đặng trường sinh.” Chúng ta tồn tại vì cái ngã riêng của chúng ta. Người càng sống cho bản thân mình, người đó sẽ càng bị đau khổ, người đó sẽ càng trở nên lẫn lộn và điên. Điên và lẫn lộn của chúng ta có quan hệ trực tiếp với phạm vi của sự tồn tại của chúng ta. Một người càng sống vì người khác, người đó càng trở nên nhẹ hơn. Người đó (tạm nói vậy) mọc cánh và bay lên trời! Và nếu một người quên bản ngã của mình hoàn toàn, người đó không bị ảnh hưởng bởi sức hút của sự sống. Người đó không có rễ trong đất, bây giờ người đó có thể bay, con chim tự do, trên bầu trời. Những người như vậy đã được gọi là tự do, giải thoát, ở phương Đông, người có cuộc sống không lấy bản ngã làm trung tâm.

Tôi đã bảo bạn rằng giấc ngủ làm cho bạn cảm thấy nhẹ. Điều này là vì bạn quên đi bản ngã của bạn trong chừng nấy thời gian đó. Tôi cũng nói ngủ không tới trong tuổi già. Điều này là vì bản ngã là đậm đặc, được kết tinh tới mức nó không cho phép giấc ngủ tới. Tâm trí bị nặng trĩu xuống tới mức thảnh thơi trở thành không thể được.

Tuy nhiên chúng ta biết về kiểu người khác hoàn toàn, người không cảm thấy nhu cầu ngủ! Krishna đã nói trong Gita của ông ấy “Người thức tỉnh như thế là thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ của người đó.” Phật cũng đã nói: “Bây giờ ta ngủ, nhưng giấc ngủ này chỉ thuộc về thân thể chứ không thuộc về bản thân ta.” Mahavira đã nói, “Chừng nào giấc ngủ vẫn còn, biết ông đã không có kinh nghiệm về atman.”

Có loại thức tỉnh khác khi không có nhu cầu bên trong về giấc ngủ, vì không có bản ngã bên trong, cái làm cho giấc ngủ là cần thiết. Khi không có bản ngã bên trong, không có căng thẳng bên trong. Khi không có căng thẳng, không có nhu cầu về ngủ. Thân thể mệt mỏi, cho nên nó ngủ nhưng ý thức vẫn thức. Ý thức bên trong giữ việc quan sát: nó thấy giấc ngủ đang hạ xuống thân thể, đang lan toả khắp thân thể; nó thấy giấc ngủ khởi hành từ thân thể và thân thể đi ra khỏi giấc ngủ. Ai đó bên trong thường xuyên thức tỉnh và quan sát.

Bạn phải không bao giờ có ý nghĩ về điều này. Bạn đã bao giờ thấy giấc ngủ tới với bạn hay đi khỏi bạn không? Nếu bạn có thấy, bạn là người tôn giáo. Nếu bạn không thấy, bạn không phải là người tôn giáo. Tôn giáo chẳng liên quan gì tới bạn đi tới đền chùa bao nhiêu lần. Nó chẳng liên quan tới bạn đọc Gita hay Koran bao nhiêu lần. Tiêu chí là khác và đó là: bạn có thể thấy giấc ngủ tới với bạn không? Bạn chỉ có thể quan sát hiện tượng này nếu có ai đó thức tỉnh bên trong vào lúc giấc ngủ tới. Bằng cách nào khác mà bạn sẽ thấy được nó? Giấc ngủ tới và bạn ngủ; bạn thức chỉ sau khi giấc ngủ được thực hiện xong. Khi giấc ngủ tới, bạn không hiện diện – thế thì ai sẽ thấy? Khi giấc ngủ rời đi thế thì bạn vẫn đang buồn ngủ – thế thì ai sẽ thấy? Giấc ngủ và bạn không bao giờ gặp nhau. Điều này ngụ ý bạn rơi vào buồn ngủ. Khi giấc ngủ tới, bạn trở nên vô ý thức tới mức không phần nào của bạn đứng sang bên để chứng kiến việc đang xảy ra.

Người không thể thấy giấc ngủ đang choàng xuống bên trong người đó, thì cũng không thể thấy được giận đang nảy sinh từ bên trong người đó, vì cùng trạng thái ngủ toả khắp bên trong trước việc dâng lên của giận. Chỉ sau khi giận đã rời đi người đó mới có khả năng nhìn nó. Thế thì người đó sẽ bị chất đầy với hối hận. Tuy nhiên người đó đã không thấy các giai đoạn khởi đầu của giận. Người xoay xở thấy giận trong giai đoạn khởi đầu của nó, được giải thoát khỏi giận. Điều đó cũng hệt như với dục. Khi đầu tiên nó nảy sinh, chúng ta không nhìn thấy nó. Người nhận thấy nó trong giai đoạn đầu tiên của nó được giải thoát khỏi dục.

Mọi thu xếp của sự sống, chẳng hạn như cuộc sống riêng của chúng ta, tất cả đều dựa trên hôn mê. Chúng ta sống trong hôn mê; và trung tâm của vô thức này, là bản ngã của chúng ta.

Lão Tử nói, “Trời đất sở dĩ dài lâu, là vì không sống cho mình.” Người không có ý nghĩ về bản thân mình, sẽ không sống vì bản thân người đó. Tất cả chúng ta đều sống vì cái ngã riêng của chúng ta. Có một phát biểu kì lạ trong Upanishads: “Chồng không yêu vợ qua cô ấy, anh ta yêu cái ngã riêng của anh ta. Bố không yêu con trai; qua con trai, bố yêu cái ngã riêng của bố. Mẹ không yêu con gái; qua con gái, mẹ yêu cái ngã riêng của mẹ.” Upanishads nói rằng khi chúng ta nói yêu ai đó thế nữa, chính vì cái ngã riêng của chúng ta mà chúng ta yêu qua trung gian đó. Ngay cả khi chúng ta nói chúng ta sống vì người khác, phát biểu của chúng ta là không đích thực. Nó là sai; vì người chúng ta viện lẽ chúng ta sống vì họ hôm nay, chúng ta có thể cảm thấy muốn giết ngày mai.

Tôi nói, “Tôi sống vì con trai tôi.” Nếu ngày mai đứa con trai này không vâng lời tôi, làm tôi khó chịu, đi ngược lại ước muốn của tôi, tôi sẽ tạo ra cả nghìn cản trở trên đường của nó. Tôi sẽ thấy rằng tôi gây cho nó đủ loại gian khó trong cuộc sống – và tôi thường nói tôi sống chỉ vì nó! Chừng nào nó còn làm hài lòng cho ham muốn của tôi, vâng theo mọi chỉ đạo của tôi, nuôi dưỡng bản ngã của tôi, nó là việc kéo dài của bản ngã của tôi và tôi tuyên bố sống chỉ vì nó. Nếu tôi nói, “Tôi sống vì vợ tôi.” Tôi chỉ có thể làm được như vậy khi cô ấy thoả mãn các ham muốn của tôi; khi cô ấy là công cụ cho việc làm hài lòng các đam mê của tôi, là chính cái bóng của tôi. Đừng để điều này lừa bạn. Tôi chỉ sống vì cô ấy chừng nào cô ấy còn là hữu dụng cho tôi. Ngày cô ấy không còn hữu dụng nữa, cô ấy trở thành vướng víu cho bản ngã của tôi. Thế thì tôi sẽ vứt cô ấy ra như chúng ta vứt các vật đã hết hữu dụng của chúng. Cô ấy trở thành rác rưởi nhiều thế với tôi.

Nhưng chúng ta thề chúng ta sống vì người khác. Chừng nào thậm chí còn một chút bản ngã bên trong chúng ta, chúng ta không thể sống vì người khác được. Thế thì không thành vấn đề chúng ta tuyên bố nhiều bao nhiêu, chúng ta vẫn sống vì một mình bản thân chúng ta.

Một người nói, “Tôi sống vì đất nước tôi, tôi sẽ chết vì đất nước tôi.” Điều này là tuyệt đối sai. Không ai sống hay chết vì đất nước. Người đó chết vì ‘đất nước của tôi’. Trong điều đó nữa, là việc đáp ứng cho bản ngã riêng của người đó. Nếu tôi là người Hindu, tôi có thể chết cho Hindu giáo. Nhưng giả sử trong những khoảnh khắc cuối cùng trước khi tôi bị hành hình, tôi được bảo tôi không phải là người Hindu và rằng tôi thực tại là người Hồi giáo được nuôi lớn trong gia đình Hindu, mọi hi sinh về phần tôi trở thành vô dụng. Chính khoảnh khắc đó toàn thể thái độ của tôi sẽ thay đổi. Tôi sẽ không đi tới giá treo cổ vì Hindu giáo, nhưng vì tôi đã ở dưới ảo tưởng rằng tôi đã là người Hindu, bản ngã của tôi là bản ngã Hindu, vào trong việc chết vì Hindu giáo, tôi đã chỉ làm hài lòng cho bản ngã của tôi. Bây giờ ngày nay, việc làm hài lòng này đã mất rồi. Vấn đề kết thúc. Bây giờ tôi sẽ nguyền rủa bản thân tôi vì ngu xuẩn của tôi.

Chừng nào bản ngã còn dai dẳng, bất kì cái gì chúng ta làm, bản ngã sẽ là người chủ. Cố hiểu điều này cho rõ:

Chúng ta làm nhiều thứ, cứ tưởng bản ngã chẳng liên quan gì tới điều đó. Nhưng chừng nào còn có bản ngã bên trong chúng ta, bất kì cái gì chúng ta làm đều sẽ có liên quan tới bản ngã. Chúng ta có thể khắc sâu tính khiêm tốn vào bản thân chúng ta. Điều đó sẽ chỉ trở thành đồ trang sức cho bản ngã của chúng ta và vẫn còn như vậy. Tôi có thể sụp xuống chân bạn và cảm thấy bản thân tôi là cát bụi trên chân bạn. Tuy nhiên bản ngã bên trong sẽ vẫn luôn nhắc nhở tôi rằng không có người nào khiêm tốn hơn bản thân tôi. Bản ngã của tôi sẽ khai thác sự khiêm tốn này và làm mạnh cho bản thân nó trên điều đó. Bản ngã thậm chí có thể từ bỏ. Nó có thể từ bỏ mọi thứ nhưng bao giờ cũng sẽ cứu bản thân nó. Nó không bao giờ chết.

Người như Lão Tử nói, “Sự sống vĩnh hằng chỉ có thể được đạt tới khi ông bắt đầu sống vì người khác.” Nhưng tôi có thể sống cho người khác chỉ khi không có ‘tôi’ bên trong tôi; hay khi tôi bắt đầu thấy cái ngã riêng của tôi trong những người khác. Hai điều xảy ra này là như nhau. Nếu tôi bắt đầu thấy cái ngã riêng của tôi trong người khác điều đó là hệt như khi cái ‘tôi’ của tôi bị thủ tiêu. Việc xảy ra là như nhau dù tôi bắt đầu thấy bản thân tôi trong người khác hay cái ‘tôi’ bên trong tôi trở nên tuyệt diệt. Mặc dầu phát biểu này dường như nghịch lí, tôi nhắc lại: Tôi có thể tồn tại vì người khác chỉ khi người khác không còn là ‘người khác’ với tôi. Chừng nào người khác vẫn là ‘người khác’ với tôi, tôi không thể sống vì người khác được; cho đến lúc đó tôi vẫn chỉ sống vì bản thân tôi. Chính cảm giác về sinh linh khác là người khác, là cảm giác của bản ngã bên trong tôi. Nếu không, làm sao tôi sẽ biết người khác là người khác? Chỉ khi người khác không cho cảm giác là như người khác với tôi, tôi mới có thể sống vì người đó.

Chúng ta cũng có thể diễn đạt điều đó theo cách này nữa: Tôi phải lan toả ra ngoài để cho mọi thứ và mọi người trở thành cái ngã riêng của tôi. Nếu tôi sống theo cách này, sự tồn tại của tôi trở thành tự do, không lo âu, nó không có bất kì gánh nặng nào; nó là sự tồn tại của tự do mà trong đó mọi ràng buộc của chúng ta với cái vĩnh hằng là được kết chặt. Chừng nào chưa tới lúc đó mọi mối quan hệ của chúng ta đều là với cái tạm thời. Không có gì tạm thời hơn bản ngã và do đó mọi kết nối của nó đều là với cái tạm thời.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.2, Ch.20 Được ân huệ là người sẵn sàng là người cuối

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471