Bản chất nhị nguyên và dựa vào giác quan của tâm trí

Xem mà không thấy, nên tên gọi là Di;

Ngóng mà không nghe, nên tên gọi là Hi;

Nắm mà không giữ gọi là Vi.

 

Đây là lời kinh nói đến huyền tối cao của sự tồn tại. Nhưng mọi lời được dùng để diễn đạt huyền này không đạt được tới nó. Không chỉ chúng không diễn đạt được, mà chính nghĩa đối lập được truyền đạt qua chúng. Điều này phải được hiểu từ các mặt khác.

Lời của người là không hoàn hảo, không đầy đủ. Không lời nào được người nói là hoàn hảo. Không lời nào có thể là hoàn hảo, vì mọi lời đều là sáng tạo của trí tuệ, và trí tuệ hiện hữu nhưng là phần nhỏ vô cùng của sự tồn tại. Bất kì cái gì được tạo ra bởi một phần không thể là hoàn hảo.

Trí tuệ là phần rất nhỏ của cuộc sống của chúng ta nữa. Chúng ta là nhiều hơn nhiều so với trí tuệ; chúng ta là lớn hơn nhiều so với trí tuệ của chúng ta, bao la hơn. Trí tuệ chỉ là lượng rất bé, một giọt đơn thuần trong con người chúng ta; nó không là đại dương. Lời được hình thành bởi trí tuệ và do đó chúng là không hoàn hảo, vì cái được dẫn ra từ nguồn không hoàn hảo không thể là hoàn hảo. Do đó, mọi lời được hình thành bởi trí tuệ đều không diễn đạt được huyền tối cao.

Mọi lời của chúng ta bị ảnh hưởng bởi các giác quan của chúng ta. Nếu chúng ta nói rằng chân lí tối cao có thể được thấy, điều đó có nghĩa là mắt có thể nhìn thấy nó. Nếu chúng ta nói rằng chân lí tối cao có thể được nghe, có thể được chạm tới, điều đó có nghĩa là tai có thể nghe thấy nó và tay có thể cảm thấy nó. Tay chạm, tai nghe, mắt nhìn. Nhưng bất kì cái gì mắt thấy sẽ bị giới hạn, vì mắt có những giới hạn của chúng. Tương tự, bất kì cái gì tai nghe sẽ bị giới hạn, và bất kì cái gì tay chạm sẽ là thô. Các giác quan làm việc trong một trường giới hạn. Do đó, kinh nghiệm của chúng bị giới hạn. Thế thì, khi chúng ta bắt đầu quan niệm về sự tồn tại bao la, vô giới hạn, mọi lời của chúng ta, mà bị ảnh hưởng bởi giác quan của chúng ta, trở thành vô dụng vì tất cả chúng đều mang dấu vết của khu vực bị hạn chế của các giác quan. Đặt giới hạn vào cái vô giới hạn là phá huỷ chính bản tính của nó.

Bất kì khi nào chúng ta nghĩ về bất kì đối thể nào, nhị nguyên bước vào. Suy nghĩ là quá trình phân chia. Nó là phương pháp nhìn vào mọi thứ bằng việc đập vỡ mọi thứ ra – hệt như khi tia sáng mặt trời chiếu qua lăng kính và cho chúng ta bẩy mầu cơ bản. Lăng kính đập vỡ tia sáng thành bẩy phần tạo nên bẩy mầu. Bản thân tia sáng là không mầu. Khi các mầu được trộn lại với nhau, mầu kết quả là trắng. Theo cách giống vậy, trí tuệ đập vỡ mọi thứ thành hai. Chúng ta nói: nóng và lạnh. Đây lại là một trạng thái được mang tới bởi cách làm việc của trí tuệ. Cái chúng ta gọi là lạnh là cách đo nóng, và cái chúng ta gọi là nóng là cách đo lạnh. Lạnh và nóng không phải là hai thứ khác nhau. Chúng là hai trạng thái khác nhau của cùng nhiệt độ.

Tuy nhiên trí tuệ từ chối chấp nhận điều này, với nó nóng và lạnh là hai hoàn cảnh của cùng một thứ, thế thì băng và lửa phải có vẻ là cùng một thứ. Tuy nhiên sự kiện là ở chỗ băng là phần nhỏ vô cùng của nhiệt độ của lửa và lửa là một phần của nhiệt độ của băng. Chúng là các mức độ cực đoan của cùng một nhiệt độ: tại đầu này nó là băng, tại đầu kia nó là nhiệt. Đó là lí do tại sao, nhiệt kế có thể đo cả hai. Nếu lạnh và nóng mà là hai thứ khác nhau, chúng ta chắc đã phải có các máy đo tách bạch để đo chúng.

Tuy nhiên trí tuệ đập vỡ mọi thứ thành hai. Lấy ví dụ về yêu và ghét. Dễ hiểu nóng và lạnh vì chúng không tạo thành một phần của chúng ta, nhưng tâm trí không được chuẩn bị để chấp nhận ghét và yêu là hai hoàn cảnh của cùng một thứ. Làm sao yêu so sánh được với ghét, hay tha thứ với giận, hay hưởng thú với từ bỏ, hay khao khát của cải với khao khát phúc lành? Nhưng những điều này có thể được đo bằng cùng nhiệt kế. Ghét và yêu là hai đầu của cùng một cảm xúc. Do đó bất kì yêu nào đều có thể đổi thành ghét, và bất kì ghét nào đều có thể đổi thành yêu. Và mọi sự xảy ra theo cách đó: yêu biến thành ghét, ghét biến thành yêu; bạn trở thành thù và ngược lại. Nếu ghét và yêu mà không là một và cùng một thứ, chắc sẽ không có cách nào cho bạn trở thành thù hay thù trở thành bạn. Machiavelli, trong cuốn sách bất thường của ông ấy, Hoàng tử, đã khuyên các vua đừng nói cho bạn của họ điều họ không muốn cho thù của họ biết vì bạn có thể biến thành thù bất kì lúc nào. Cũng vậy, không tạo ra việc hiểu lầm như thế với kẻ thù, vì kẻ thù hôm nay có thể trở thành đồng minh ngày mai. Kẻ thù là bạn dưới dạng hạt mầm. Người đó có tiềm năng bên trong mình để trở thành bạn. Bạn bè và thù địch là hai đầu của cùng một quan hệ.

Tuy nhiên trí tuệ đập vỡ mọi thứ thành hai – ngay cả sinh và chết, mặc dầu chúng là hai cực đoan của cùng sự sống. Phía này là sinh; phía kia là chết. Không có kẽ hở giữa hai điều này. Sinh biến thành chết. Chúng ta có thể chỉ ra phần nào của sự sống nơi sinh kết thúc và chết bắt đầu không? Sinh kéo dài và mở rộng vào trong chết. Khi chúng ta nhìn sự sống từ phía bên này, chúng ta thấy sinh; nếu chúng ta nhìn nó từ phía kia, nó xuất hiện như chết. Nhưng chúng là hai đầu của cùng một việc xảy ra, hai cái tên của cùng một vật.

Vì trí tuệ đập vỡ mọi thứ thành hai, mọi phát biểu mà nó tạo ra đều là không đầy đủ. Khi chúng ta nói, “Thượng đế là sáng” – như nhiều kinh sách shastra đã nói, như Koran và Kinh Thánh và Upanishads đã nói – nó chỉ mô tả tình cảm của chúng ta, cảm xúc của chúng ta, mong đợi của chúng ta. Khi có liên quan tới thơ ca, điều đó là được; nhưng khi phát biểu một sự kiện, nó là lời nói dối. Vì thế thì tối là gì? Nếu Thượng đế là mọi thứ, tối thì sao? Thượng đế là cả sáng và tối. Thực tại, sáng và tối là hai đầu của một và cùng một thứ. Không có tối nếu không có sáng. Tối là hoàn cảnh đặc biệt của sáng. Không có sáng nếu tối cũng không hiện diện, và không có tối nơi sáng không hiện diện.

Tương tự, không có sinh mà không có chết và không có chết mà không có sinh. Chúng là hai đầu của cùng một thứ. Nhưng trí tuệ đập vỡ chúng thành hai, và thế thì tối bị đồng nhất với satan và sáng với Thượng đế. Có điềm tốt và điềm gở, thiện và ác. Tâm trí nói rằng Thượng đế là điềm tốt. Thế thì gở sẽ là gì? Sự thực là, chúng không là hai; chúng là một. Bất kì khi nào tâm trí thấy một vật nó nhanh chóng chia ra làm đôi – đây là cách thấy của nó.

Hiểu điều này cho rõ. Mọi thứ không phải là hai; chính cách thức mà tâm trí cảm nhận là làm chúng thành hai. Nếu chúng ta gạt sang bên tâm trí người một chốc và nhìn vào mọi thứ, liệu sẽ có thứ đẹp và thứ xấu không? Mọi thứ sẽ là như chúng vậy – không đẹp không xấu. Khi mọi thứ được xét bên ngoài lăng kính của tâm trí, chúng toả ra mầu của chúng và trở thành không mầu – và một mầu.

Sự kiện chẳng đáng thú vị là các tia sáng mặt trời phân chia và trở thành mầu sắc đó sao; và ngay khi chúng hợp nhất, mọi mầu mất đi đó sao? Cả bẩy mầu thống nhất lại và hình thành mầu trắng, trung lập; chúng phân chia và mầu sắc được sinh ra. Người ta không thể hình dung được rằng mầu đáng yêu được nhìn qua lăng kính không tồn tại bên ngoài nó. Các tia sáng bao giờ cũng hiện diện trên trời nhưng giọt mưa hành động như lăng kính và gây ra cầu vồng trên trời. Các tia sáng của mặt trời đi qua giọt mưa chia ra thành bẩy mầu. Người không có hiểu biết đích thực về các tia sáng mặt trời sẽ khăng khăng rằng các tia sáng của mặt trời có đa dạng mầu sắc và rằng chúng không thể là vô mầu.

Đây là phiền phức với trí tuệ của chúng ta. Khi một thứ được nhìn qua trí tuệ, chính điều tự nhiên là một số người tin Thượng đế là sáng, một số người tin là tối. Dòng tu huyền bí theo đó Jesus đã được khai tâm đã là dòng Essenes của Ai Cập. Đây là dòng tôn giáo duy nhất coi Thượng đế là tối: Thượng đế là tối toàn bộ. Điều này cũng có tính thơ ca, và tối có nhịp điệu riêng của nó. Không có lí do tại sao thứ đẹp như bài thơ này phải được diễn đạt dưới dạng chỉ sáng. Dường như vào nhiều lúc bằng so sánh Thượng đế với tối toàn bộ, dòng Essenes đã cho sự sâu lắng với Thượng đế tới mức không ai đã từng thấy Thượng đế như sáng đã từng có khả năng cho.

Có một loại kích thích trong sáng, trong khi có thanh thản tối cao trong tối. Sáng có biên giới trong khi tối là vô biên. Sáng tới và đi; tối là mãi mãi. Sáng phải được mang tới từ nguồn nào đó, trong khi tối là vô nguồn. Sáng được sinh ra từ đèn, hay từ mặt trời hay điện, hay nguồn như vậy nào đó – nó yêu cầu nhiên liệu nào đó, dù là từ đèn hay từ mặt trời. Các nhà khoa học nói rằng ngay cả mặt trời cũng sẽ hết nhiên liệu. Trong thời gian ba hay bốn nghìn năm, nó sẽ lạnh đi. Cho nên sáng có thể bị tiêu thụ hết. Tối không phải vậy.

Do đó, có cái nhìn sâu lắng đằng sau cảm nhận của dòng Essenes về Thượng đế như tối toàn bộ. Điều này không dễ dàng tới trong việc lĩnh hội của hiểu biết của chúng ta vì chúng ta rất sợ tối. Tất cả những người đã đồng nhất Thượng đế với sáng đều đã làm như vậy từ sợ. Chúng ta sợ tối, cho nên chúng ta không thể coi Thượng đế là tối được vì thế thì chúng ta sẽ phải yêu tối. Chúng ta ít sợ ở trong sáng, cho nên coi Thượng đế là sáng sẽ dễ dàng hơn. Mọi điều này đều là ham muốn và mong đợi của chúng ta.

Nhưng quan niệm này cũng có nhược điểm của nó. Không có gì sai trong việc tin Thượng đế là tối nhưng coi Thượng đế chỉ là tối cũng là sai lỗi như coi Ngài chỉ là sáng. Đây là phiền phức với dòng Essene, vì trí tuệ nữa không thể chấp nhận được cả tối và sáng cùng nhau.

Trí tuệ phân chia mọi thứ thành hai. Thượng đế là thuần khiết: chúng ta đã đầu tư vào Ngài với những phẩm chất đẹp nhất, tuyệt vời nhất, thuần khiết nhất. Thế thì khó khăn của mọi điều đó là điềm gở bước vào.

Nhưng đã từng có một giáo phái những người coi Thượng đế là gở. Đã từng có một giáo phái tôn thờ satan. Trong thời hiện tại, nhà thờ đầu tiên của satan đã được xây dựng ở Mĩ. Có hàng nghìn người coi satan là Thượng đế. Ác là Thượng đế. Và lập luận của họ là mạnh. Họ nói, “Thiện ở đâu? Đó chỉ là một quan niệm. Ác là sự kiện. Tốt lành ở đâu, thiện ở đâu? Đó chỉ là tưởng tượng của chúng ta. Ác là thực tại, ác hiện diện – và cái mà hiện diện là Thượng đế. Làm sao cái chỉ có trong mơ và tưởng tượng của chúng ta có thể là Thượng đế được? Bất bạo hành có thể có trong mơ; bạo hành là hiện diện.”

Cho nên có các tu sĩ và người có nhà thờ riêng của họ nơi họ tôn thờ ác. Nhưng họ tiến hành các hoạt động của họ trong bí mật, vì những người tin rằng thiện là Thượng đế lại không đủ thiện tới mức họ sẽ cho phép những người tôn thờ ác tồn tại nếu những người này ra công khai. Những người tin thiện sẽ tiêu diệt người tôn thờ ác. Đây cũng chính là luận cứ của người tôn thờ ác. Những người này, họ nói, người tin vào Thượng đế là thiện đã làm nhiều điều ác tới mức điều đó chứng minh quan điểm của họ: rằng ác là Thượng đế. Khi chỉ ác biểu lộ bản thân nó đằng sau tấm mạng của thiện – thực tại là ác – thế thì tại sao không chấp nhận điều đó? Những người tin vào Satan nói rằng người là yếu và do đó người không có khả năng chấp nhận ác. “Ác tồn tại, dù chúng ta có thể cố thế nào, đã bao giờ chúng ta thoát được nó chưa? Cho nên chúng ta chấp nhận ác, chúng ta tôn thờ nó, chúng ta thừa nhận nó.”

Những người tôn thờ ác, phủ nhận thiện. Những người tôn thờ thiện, phủ nhận ác. Trí tuệ phân chia mọi thứ thành hai và thế rồi chọn một.

Chân lí tối cao, cái là toàn bộ mọi thứ cùng nhau – cả bẩy mầu cùng nhau – trong bản thân nó là vô mầu, trong suốt. Nếu bạn gọi nó là đỏ, điều đó chắc sẽ là sai; nếu bạn gọi nó là vàng hay xanh dương hay bất kì mầu nào khác, điều đó chắc sẽ là sai. Nhưng mắt chúng ta chỉ có thể thấy các mầu này; sự tồn tại vô mầu ở bên ngoài cảm nhận của chúng ta.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.10, Đạo vô hình, không nghe được cũng không hiểu thấu được

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471