Hiểu biết tất cả, mà làm như không biết gì cả, đặng không?

Bây giờ trong phần thứ hai của lời kinh này, Lão Tử nói: “Cửa trời khép mở, mà làm như con mái, đặng không? Điều này chúng ta sẽ phải hiểu một chút. Có tâm trí nam làm việc theo cách đặc biệt và có tâm trí nữ làm việc theo cách khác toàn bộ. Lão Tử thiên về tâm trí nữ.

Tâm trí nam làm việc theo cách lấn tới. Khi tôi nói ‘tâm trí nam’, tôi không chỉ tới một mình đàn ông. Nó chỉ là biểu tượng cho lấn tới. Một phương pháp đi tới mọi thứ là mang tính lấn tới. Nếu bạn ham muốn cái gì đó, đi ra tất cả vì nó. Điều này, theo Lão Tử, là đặc trưng của tâm trí nam. Có kiểu tâm trí khác nữa, tâm trí không tin vào lấn tới mà vào chờ đợi kiên nhẫn, cùng nhau với lời mời. Đàn bà không bao giờ có thể lấn tới bởi bản thân cô ấy. Nếu cô ấy ao ước là vậy, cô ấy phải nhận sự giúp đỡ của nam. Cô ấy có thể gây ra việc lấn tới, nhưng bản thân cô ấy không thể lấn tới. Đàn ông có năng lực lấn tới bởi bản thân anh ta. Anh ta không cần sự giúp đỡ của bất kì ai.

Có một số đàn ông không tận hưởng làm tình nếu họ không lấn tới, vì họ nhận được vui thích đầy đủ của lấn tới, trong cưỡng hiếp và bạo hành. Do đó đàn ông không bao giờ được thoả mãn với đàn bàn dễ dàng sẵn có. Đàn bà càng không đạt tới được, kích động để chiếm cô ấy càng lớn, cô ấy càng dường như hấp dẫn hơn và đáng ham muốn hơn. Chính việc chuẩn bị để đạt tới cô ấy cho vui thích vô tận cho tâm trí lấn tới của anh ta.

Tâm trí đàn bà là không lấn tới. Cô ấy có tính cảm nhận. Cô ấy chấp nhận. Việc chấp nhận của cô ấy là khuynh hướng của cô ấy, thái độ tự nhiên của cô ấy hướng tới thế giới, tới cuộc sống.

Theo Lão Tử, chúng ta có thể có hai kiểu quan hệ với sự tồn tại: một là của lấn tới (thù địch) và kiểu kia là của chấp nhận, của sự thân thiết. Cho nên ông ấy nói, “Trở thành như con mái, như tâm trí nữ.” Không đẩy mở cửa cõi trời.

Swami Ram Tirth thường nói rằng cửa có hai kiểu mở: Ở một bên được viết là ‘Đẩy’, và bên kia được viết là ‘Kéo’. Cửa của tâm trí nữ mang chữ viết – ‘Kéo’. Tâm trí nữ kéo. Nó không bao giờ vươn ra, nó chỉ mời gọi.

Bạn có mang thói quen đẩy của bạn ngay cả lên tới cửa của cõi trời không? Bạn có vào cổng cõi trời như một Hitler hay một Napoleon không? Bạn có thử xâm lăng và chinh phục Thượng đế không? Khi một người khởi hành đi tìm Thượng đế, thái độ của anh ta là lấn tới. “Ngài ở đâu? Tôi sẽ không nghỉ cho tới khi tôi tìm thấy Ngài.” Người đó không bắt đầu nhảy múa và hát như Meera.

Khi tôi nói đàn ông, tôi ngụ ý tâm trí nam. Không phải mọi đàn ông đều có tâm trí nam. Đàn ông cũng có thể nhảy múa và hát con đường của anh ta như một Chaitanya hay như một Kabir. Đàn bà có thể có tâm trí nam nữa. Tâm trí nam và nữ chỉ là biểu tượng.

Tâm trí nữ, ngay cả khi nó khởi hành tìm kiếm, có tính cảm nhận. Nếu tâm trí như vậy không đạt tới, nó không bao giờ phàn nàn. Nó không bao giờ chê: “Ngài ở đâu? Ngài trốn ở đâu?” Tâm trí nữ bao giờ cũng nói: “Dứt khoát có cái gì đó sai ở đâu đó bên trong mình. Có lẽ lời mời của mình đang thiếu, có lẽ có lỗi trong việc chờ đợi của mình và do vậy mình đã bỏ lỡ ngài! Ngài ở đây quanh quẩn đâu đó, mình biết. Chính cửa của mình bị kẹt và sẽ không mở cho ngài.” Hiểu điều này cho rõ ràng: Phương pháp tìm kiếm Thượng đế của hiền nhân (người trí thức) là phương pháp của tâm trí nam. Phương pháp tìm kiếm Thượng đế của thánh nhân (người sùng kính) là phương pháp của tâm trí nữ. Đây là lí do tại sao, khi người sùng kính nói: “Không có đàn ông trên thế giới chấp nhận Krishna,” điều đó ngụ ý rằng mọi đàn ông khác chỉ là người tìm kiếm và do đó họ phải có tâm trí nữ. Điều này không ngụ ý rằng phần thế giới còn lại là nữ. Tuy nhiên vài người dốt và ngu quả có coi điều đó ngụ ý việc này. Có một tổ chức ở Bengal: dòng tu của người Sakis. Các thành viên của dòng tu này tin bản thân họ là người yêu của Krishna. Ngay cả một thành viên nam của dòng tu này cũng mang một thần tượng của Krishna ở tim anh ta khi anh ta ngủ ban đêm. Bây giờ không thành vấn đề bản thân người này tin bao nhiêu để là người yêu của Krishna, phương pháp tiến tới của người đó thực ra là phương pháp của tâm trí nam điển hình, tâm trí nam bao giờ cũng muốn làm cái gì đó. Người đó không thể buông bỏ bản thân mình vì người đó cảm thấy trăn trở nếu người đó không làm cái gì đó.

Lão Tử nói: “Buông bỏ!” Ông ấy thúc đẩy chúng ta thảnh thơi và để mọi sự xảy ra như chúng có thể xảy ra. Không hăm hở làm cho mọi sự xảy ra. Không vội vàng, không khăng khăng vào một kiểu kết quả đặc biệt. Trau dồi năng lực chấp nhận bất kì cái gì xảy ra. Để cửa nhà bạn mở rộng và hạnh phúc với bất kì cái gì bạn là. Không mắc thù địch với sự tồn tại. Có thái độ thân thiện. Bất kì cái gì xảy ra đều là điều đúng để xảy ra. Có kiểu cảm bên trong về tính hoà nhã, về sự thân thiện, thái độ ở gần với sự tồn tại, và chấp nhận bất kì cái gì nó làm, là cái tốt nhất có thể xảy ra.

Sống trong thái độ như vậy với khung tâm trí như vậy là sống tương ứng theo tâm trí nữ.

Lời kinh thứ ba là: “Hiểu biết tất cả, mà làm như không biết gì cả, đặng không?

Khi trí huệ là đầy đủ, có cần giữ sự cao ngạo về trí huệ không? Khi cái tên của trí huệ sáng lên với vẻ rực rỡ huy hoàng đầy đủ, bạn có phải tuyên bố rằng bạn là hiền nhân không? Thực tại, chừng nào một người khẳng định trí huệ của mình, biết rằng hiểu biết của người đó là không đầy đủ. Làm sao trí huệ có thể tuyên bố là trí huệ được? Sự thực là, ngay khi hiểu biết của một người là đầy đủ, người đó cũng đi tới biết rằng điều đó là không thể biết được. Người đó trở nên nhận biết về sự kiện rằng dù người ta biết nhiều thế nào, vẫn có nhiều thứ hơn nữa để được biết. Người đó trở nên nhận biết về sự kiện rằng hiểu biết của người đó đơn thuần là một nhúm nước lấy từ đại dương tri thức vô hạn, điều người đó không bao giờ có thể hiểu thấu bên trong tay mình. Thực tại, một mình người đó biết nắm tay của ai là không nắm lại và ai đã mất mọi cảm giác về nắm. Người đó tan biến trong đại dương hiểu biết, hệt như muối tan trong nước. Không có người biết được bỏ lại đằng sau. Cho nên, người khởi hành trên con đường của hiểu biết phải được chuẩn bị cho việc triệt tiêu hoàn toàn. Nơi có mục đích đang xét tới, điều này không thể có được; vì ở đó bản ngã là mạnh. Nhưng nơi mục đích vắng bóng, không có lí do gì cho bản ngã còn lại. Nếu tôi không có lo âu về ‘ngày mai’, cái ‘tôi’ trong tôi luôn luôn chết. Nếu tôi không đưa ra đòi hỏi về khoảnh khắc sắp tới, nếu tôi không có kế hoạch cho tương lai, chỉ thế thì tôi có thể là hạnh phúc. Ngay khi tôi từ bỏ mọi sự khăng khăng, bản ngã của tôi không có chỗ đứng. Cái ‘tôi’ là móc nối giữa các đích dai dẳng của tôi và các kế hoạch. Đòi hỏi của chúng ta càng lớn về tương lai, bản ngã càng lớn.

Lão Tử hỏi: “Sau khi đạt tới hiểu biết đầy đủ, chúng ta không thể sống dường như chúng ta không biết gì sao?” Điều thường xảy ra là khi Lão Tử được hỏi, ông ấy sẽ trở nên im lặng đôi khi tới hàng giờ. Nhiều tới mức người hỏi quên mất câu hỏi. Thế rồi sau một thời gian dài, Lão Tử sẽ hỏi, “Câu hỏi của ông là gì?”

Người này chắc sẽ đáp, “Giờ tôi cũng quên mất tôi đã hỏi gì. Thế thì sao thầy đã không trả lời tôi?”

Lão Tử chắc sẽ nói, “Ta đã không biết câu trả lời. Giá mà ta có câu trả lời sẵn nào đó, ta chắc đã trao nó cho ông. Ta đã đợi một cách im lặng cho câu trả lời tới. Ta nghĩ có lẽ nó sẽ tới. Do đó ta hỏi lại câu hỏi của ông là gì?”

Trong suốt cuộc đời dài này, Lão Tử đã không viết gì. Cuốn sách nhỏ này là cuốn đầu tiên và cuối cùng của ông ấy. Các đệ tử cầu xin ông ấy hết lần nọ tới lần kia nhưng Lão Tử đều nói, “Ta biết gì mà ta phải viết? Và nếu ta bỏ lại dốt của ta đằng sau ta, điều đó sẽ là nguy hiểm.” Nhưng ông ấy càng từ chối, mọi người càng ép ông ấy viết. Thế rồi một đêm ông ấy trốn khỏi lều của mình, nhưng đã bị bắt khi ông ấy cố vượt qua trạm kiểm biên ải. Viên quan chịu trách nhiệm đã từ chối cấp phép cho ông ấy ra đi mà không đóng thuế, điều ông này đòi hỏi dưới dạng bài viết của ông ấy. Viên quan ra lệnh cho ông ấy ở lại đó trong ba ngày và viết ra mọi điều ông ấy đã biết. Lão Tử lâm vào thế khó xử. Ông ấy là người đã im lặng suốt cả đời mình, người không bao giờ tuyên bố về hiểu biết của mình, giờ bị buộc phải viết ra! Ông ấy cần vượt qua biên ải và ra đi mãi mãi để là một với sự hiu quạnh của núi non. Nhưng người này sẽ không để ông ấy đi.

Cho nên trong ba đêm Lão Tử đã ngồi và viết cuốn sách này – nếu bạn có thể gọi nó là sách. Chính điều đầu tiên ông ấy nói đã là: “Cái có thể được biết không thể được diễn đạt và cái được viết ra thì không phải là chân lí.”

Cho nên Lão Tử hỏi: “Phải chăng không thể có chuyện người biết có thể được đặt vào trong việc cảm về không biết?” Đó không phải là câu hỏi về ‘phải chăng không thể có chuyện?’ Nó là vậy! Nhưng như vậy điều này có thể không trở thành khẳng định giáo điều, Lão Tử đặt nó dưới dạng câu hỏi do dự. Ông ấy nói rằng khi việc hiểu của một người là mở theo mọi hướng, khi người đó ở vị trí biết mọi thứ có đó để biết, khi mọi cánh cửa của hiểu biết và huyền của sự sống mở ra cho người đó, khi ánh sáng của hiểu biết trùm lên người đó từ mọi hướng, chẳng lẽ người đó không thể dường như giống người không hiểu biết sao?

Lão Tử đặt điều này dưới dạng nghi vấn để truyền đạt  do dự của ông ấy. Do dự này là đặc trưng của người đã được sáng lên từ bên trong. Người dốt nói với sự tự tin. Bất kì khi nào Mahavira được hỏi, ông ấy không bao giờ trả lời mà không có ‘có lẽ’. Ông ấy sẽ nói, “Có lẽ nó là vậy.” Hay ông ấy sẽ nói, “Có lẽ nó không như vậy,” hay “Có lẽ cả hai. Có lẽ cả hai là vậy.” Hay ông ấy sẽ nói câu trả lời của hiền nhân đã được sáng từ bên trong thì không bao giờ có tính toán học. Ông ấy không bao giờ khăng khăng rằng hai với hai là bốn, vì huyền cùa sự sống là bao la thế, sự sống là câu đố không thể giải được. Người cho câu trả lời rõ ràng phải biết rõ rằng có nhiều thứ bị bỏ lại còn chưa được biết. Cho câu trả lời rõ ràng để lại nhiều điều cần được phát triển. Phần không được phát triển này cũng là sống động và nếu bị bỏ quên, sẽ không quên trả thù.

Do đó Lão Tử không khẳng định bất kì cái gì một cách có thẩm quyền. Ông ấy đáng ra có thể đã dễ dàng nói rằng người trí huệ phải cư xử như người dốt. Điều đó nữa đáng ra có thể đã truyền đạt nghĩa của ông ấy; nhưng thế thì phát biểu của ông ấy chắc đã không mang dấu hiệu của trí huệ của ông ấy. Thế thì nó chắc đã giống như phát biểu của người dốt bình thường.

Chuyện kể rằng có lần một người tranh luận nguỵ biện Sophist nổi tiếng tới thăm Socrates. Socrates là triết gia phương Tây duy nhất gần như ở tầm cỡ của Lão Tử. Ông ấy bao giờ cũng hỏi những câu hỏi nhưng bản thân ông ấy không cho câu trả lời. Một lí do tại sao ông ấy bị đầu độc đã là thói quen không trả lời này. Nó đã gây ra thất vọng trong những kẻ thù của ông ấy. Socrates bao giờ cũng nói rằng ông ấy không biết. Ông ấy đã tuyên bố mình là người dốt, và do đó, ông ấy nói ông ấy có quyền hỏi và vì ông ấy không có trí huệ, làm sao ông ấy có thể trả lời được? Chúng ta thấy bản thân mình gặp khó khăn với người như vậy, vì các câu hỏi có thể được hỏi vô tận. Và nếu người khác không đưa ra lời đáp, bạn sẽ đặt câu hỏi khác của bạn dựa trên cái gì? Toàn thị trấn bị phiền hà bởi hành vi của Socrates. Họ sợ đương đầu với ông ấy trên phố vì sợ ông ấy có thể đặt câu hỏi nào đó cho họ. Thế thì đám đông sẽ tụ lại và sẽ có nhiều khó khăn, vì từng người biết mình chẳng biết gì về mọi thứ người đó giả vờ biết. Vì không ai hỏi, bạn đi một cách sung sướng với ảo tưởng của bạn về hiểu biết. Tuy nhiên, nếu ai đó không hỏi, bạn thấy bản thân bạn trong phiền phức.

Nhưng sự kiện là, không ai hỏi vì từng người trong chúng ta phải cứu lấy cái gọi là hiểu biết của chúng ta cho bản thân chúng ta. Chúng ta không ngừng tham gia vào tạo mưu mô lẫn nhau. Chẳng hạn, nếu ai đó hỏi bạn, “Thượng đế có tồn tại không?” Bạn thấy bản thân bạn lâm vào tình huống khó khăn. Nhưng bạn cũng có thể xoay ngược lại và hỏi, “Ý kiến của anh là gì?” Bây giờ người khác này cũng có niềm tin nào đó của riêng mình mà anh ta muốn gìn giữ, thế thì khó khăn bắt đầu. Cho nên chúng ta không chọc vào cái dốt của nhau. Chúng ta khôn trong dốt của mình, và người kia thành thạo trong dốt của anh ta. Do vậy, chúng ta bảo vệ dốt của nhau và coi việc nêu ra những câu hỏi như vậy là cách xử sự xấu.

Socrates đã không phải là người lịch sự. Trước khi thi hành việc đầu độc ông ấy, quan toà của thành phố đã bảo Socrates rằng nếu ông ấy dừng các hành động nói chân lí của mình, ông ta sẽ cho ông ấy tự do. Socrates đáp lại rằng đó là việc của ông ấy, ông ấy không thể làm khác được. Làm sao ông ấy có thể dừng việc nói chân lí, vì bất kì cái gì ông ấy nói đã luôn luôn là chân lí. Chẳng có ích gì mà sống nếu ông ấy không thể nói chân lí. Cuộc sống như vậy sẽ là cảnh nô lệ.

Người nguỵ biện này mà tôi đã nhắc tới, tới Socrates và tuyên bố một trong các quan niệm logic của ông ta. Ông ta bảo Socrates, “Không có gì tuyệt đối trong thế giới này; không cái gì là độc lập. Không cái gì là hoàn hảo trong thế giới này kể cả người, học thuyết của người, chân lí của người.” Socrates hỏi ông ta, “Phát biểu của ông có là đúng đầy đủ và hoàn toàn không?” Người nguỵ biện, người bây giờ đã nhảy vào trong trung tâm luận cứ, không nhận ra rằng ông ta sẽ bị mắc vào trong lời riêng của mình, đã nói, “Điều này là đúng hoàn toàn.”

Socrates nói, “Thế thì tôi chẳng có gì thêm để nói. Câu chuyện ở chỗ cuối rồi, tôi để ông nghĩ về nó cho bản thân ông.”

Bất kì khi nào chúng ta khẳng định tính đầy đủ của bất kì cái gì, chúng ta quên sự kiện rằng sự sống là rất huyền bí. Nó không phải là hai với hai là bốn và đó là chỗ cuối của nó. Cái gì đó bao giờ cũng vẫn còn lại đằng sau, và cái gì đó đó trở thành chỗ cuối cho chúng ta. Giá mà người này bảo Socrates rằng chân lí nào đó trong thế giới này là hoàn hảo và một số thì không thay vì nói rằng không chân lí nào là hoàn hảo trong thế giới này, Socrates chắc đã không đuổi ông ta ra nhanh thế. Trong một và cùng một hơi ông ta đã tuyên bố rằng không chân lí nào là hoàn hảo và rằng điều ông ta nói là đúng hoàn hảo, ông ta đã làm tiêu tan phát biểu riêng của ông ta. Bất kì khi nào chúng ta làm những khẳng định truyền thống như vậy, chúng ta hoàn toàn quên cái đối lập của chúng. Thế thì cái đối lập này trả thù.

Do đó Lão Tử không nói rằng người tuyên bố là trí huệ, là người dốt. Phát biểu như vậy chắc sẽ là na ná như khẳng định về trí huệ. Do đó Lão Tử nói: “Chẳng lẽ có chuyện rằng người mà hiểu biết đã mở mọi cánh cửa của nó cho người đó, lại cư xử như người dốt sao?” Câu hỏi do dự này Lão Tử hỏi. Trí huệ hoà nhã và linh hoạt, ý thức linh động là chỉ dẫn đặc trưng về sự hoàn hảo riêng của Lão Tử. Đây là ba lời kinh; cuộc sống tự do khỏi tham vọng, thái độ chấp nhận đầy đủ và lời mời, và chuẩn bị để trở thành vô hiểu biết đầy đủ.

Người có dũng cảm cho điều này, đạy tới đích tối thượng của cuộc sống và đạt tới sự hoàn hảo cao nhất ở đây và bây giờ. Người như vậy không đợi ‘ngày mai’. Người như vậy đạt tới phúc lớn – không phải sau cuộc sống, mà ở đây và bây giờ. Paramatman không cử người đó tới thế giới cao hơn nào đó như chúng ta tin. Thay vì thế người đó được bao quanh và được tràn ngập bởi Thượng đế từ mọi phía. Người như vậy không có gì nhiều hơn để đạt tới vì kho báu của cuộc sống mở mãi mãi cho người đó.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.3, Ch.3 Cuộc sống vô đích, thái độ mời gọi và việc hiểu mềm dẻo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471