Từ bỏ ích kỉ

Khoa học đã có khả năng đặt ra luật trong khi tôn giáo thì không thể. Từng người phải đi vào cuộc hành trình của mình một mình. Và có rất ít người bắt đầu cuộc hành trình vào trong của họ mà không có bất kì định kiến nào – Phật hay Lão Tử nào đó. Ngoài ra người Hindu đi vào bên trong như người Hindu, người Mô ha mét giáo đi vào như người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo đi vào như người Ki tô giáo. Bạn nhận mọi quan niệm và giáo huấn cùng đi với bạn và thế rồi bạn thấy bên trong điều bạn đã khởi hành để nhìn. Ảo tưởng là dễ tạo ra bên trong bản thân người ta vì không ai ở đó ngoài bạn.

Do đó, thường xuyên, Lão Tử nhấn mạnh vào cái ngã đơn giản. Với “đơn giản” ông ấy ngụ ý không có mọi quan niệm. Lão Tử thậm chí đi một bước xa hơn. Ông ấy nói, “Không đi vào bên trong ngay cả với niềm tin rằng atman có đó, vì điều đó cũng trở thành định kiến.”

Khi bất kì ai hỏi Phật, “Atman tồn tại hay không?” ông ấy chắc sẽ đáp lại, “Đi vào bên trong và nhìn cho bản thân ông. Nếu ta nói nó tồn tại, điều đó chắc là sai. Nếu ta nói nó không tồn tại, điều đó chắc cũng là sai.”

Người này sẽ nói, “Làm sao cả hai có thể sai?”

Phật chắc sẽ nói, “Cả hai sẽ là sai trong cả hai trường hợp ta sẽ cho ông một quan niệm. Nếu ông đi vào bên trong với hiểu biết rằng atman hiện hữu, ông sẽ trải nghiệm atman cho dù nó không tồn tại. Và nếu ông đi cùng hiểu biết rằng không có atman, ông sẽ không có bất kì hiểu biết qua loa về nó cho dù nó có đó.”

Người bị bắt giữ và biến thành nô lệ bên trong bao nang của các quan niệm riêng của người. Một khi người bị bắt vào bên trong các niềm tin riêng của mình, không cái gì có thể giải phóng cho người. Nhà tù lớn nhất là nhà tù của các niềm tin và ý tưởng riêng của chúng ta. Cho nên Lão Tử hay Phật sẽ nói: “Không tin vào bất kì cái gì. Đơn giản đi vào bên trong. Bất kì cái gì hiện hữu, biết cái đó; bất kì cái gì ông gặp, nhìn. Không làm cho bản thân ông quen với cái không quen thuộc một cách vội vã. Không che đậy cái không thể biết bằng hiểu biết của ông. Để cái lạ vẫn còn là cái lạ. Biết bất kì cái gì về nó trước khi ông biết nó là không đúng.”

Đây là nghĩa của cái ngã đơn giản. Do đó Phật không bao giờ nói về Ishwara hay atman. Phật dường như là người vô thần. Điều này là tự nhiên. Ông ấy không tin vào Thượng đế nhưng ông ấy không tin vào atman nữa. Phật nói, “Ta chỉ tin vào cái rỗng.” Nhưng bạn không thể xây dựng quan niệm về rỗng. Nếu bạn nghĩ bạn có thể, nó sẽ không là shunya (rỗng). Bất kì cái gì có thể được quan niệm đều trở thành đối thể. Rỗng không có hình dáng và do đó không thể được quan niệm. Chúng ta có nhiều quan niệm về Thượng đế. Nhìn số các thần tượng chúng ta đã tạo ra mà xem. Chúng ta cũng có nhiều quan niệm về atman.

Có nhiều quan niệm riêng về atman. Một số người nói nó là trong hình dáng của ngón tay cái của chúng ta: một số người nói nó là trong hình dáng của thân thể chúng ta. Lại còn có những người khác nói nó là giống như chất lỏng; nó lấy hình thể của bất kì cái gì nó đi vào. Trong con người nó lấy hình thể con người; trong con kiến nó lấy hình thể của kiến; trong voi nó lấy hình thể của voi.

Nhưng quan niệm về shunya (rỗng) là gì? Shunya ngụ ý cái không thể được quan niệm.

Phật đã nói, “Nếu ông muốn biết niềm tin của ta, đức tin của ta, ta có đức tin vào chỉ một thứ: shunya (rỗng). Và vì ta không muốn tạo ra bất kì quan niệm nào trong ông, ta nói rằng ta không biết liệu có atman bên trong hay không. Nhưng một điều là chắc chắn – có rỗng bên trong ông. Đi vào rỗng này đi. Đừng hỏi ta rỗng này giống cái gì, vì rỗng là cái không hiện hữu. Làm sao ông có thể diễn đạt cái không có hình thể, không mầu, không dạng?”

Lão Tử nói: “Làm lộ cái ngã đơn giản của ông.” Đừng chú ý tới các thầy giáo tôn giáo và các học giả, người giáo dục bạn về hình thể của atman, người nói rằng atman giống thế này hay atman giống thế kia. Bỏ mọi ý nghĩ về atman mà bạn đã thu thập và đi vào bên trong, để cho cái đang hiện hữu có thể được lộ ra.

Làm lộ cái ngã đơn giản của ông. Đi theo bản tính nguyên thuỷ của ông.” Không hỏi bản tính của bạn giống cái gì. Nếu bạn hỏi, bạn đi lạc lối, vì thế thì một quan niệm sẽ được hình thành. Không hỏi, thậm chí không nghĩ, không tìm. Chỉ đi vào bên trong và nếm trải nó cho bản thân bạn.

Phật đã nói, “Đại dương là mặn ở bất kì chỗ nào ông nếm nó.” Không lúc nào, không ở đâu mà nước đại dương được nếm lại khác đi. Rỗng bên trong cũng cho vị hệt như nhau với bất kì ai đã bao giờ nếm trải nó. Nhưng vị này giống như người câm nếm kẹo. Người đó không thể nói được vị này giống cái gì. Người không có lời để diễn đạt vị của rỗng. Nó to lớn tới mức mọi lời đều không đủ cho nó. Cho nên đừng hỏi. Bước vào bên trong, nắm lấy cái gần bạn thế, được nhận chìm trong nó. Bị chìm nghỉm!

Nhưng chúng ta lên đường đi tìm. Chúng ta tìm atman ngay cả trong thế giới bên ngoài. Ngay cả khi chúng ta tìm cái ngã riêng của mình, chúng ta đi hỏi người khác. Cứ dường như chúng ta đã đi hỏi người lạ đường về nhà riêng của chúng ta! Bất kì vô nhạy cảm nào có thể lớn hơn điều này được không?

Bất kì khi nào chúng ta hỏi người khác, kinh nghiệm của chúng ta về cái ngã trở thành bị giả mạo. Vậy mà chúng ta sẵn lòng chấp nhận điều này, vì tin vào người khác là ham muốn rất tự nhiên trong người dốt. Tri thức là rẻ. Nó là tự do, dễ dàng sẵn có. Việc tự biết mình đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và lao động. Chúng ta phải tự mình tiến lên.

Tri thức nghe gián tiếp được thu nhận từ người khác sẽ không có tác dụng trong cuộc truy tìm chân lí. Bạn phải hạ bỏ tải trọng, dỡ gánh nặng cho bản thân bạn khỏi mọi quan niệm. Bạn phải đi vào bên trong dường như thuyền của bạn đã bị lật úp và bạn bị ném lên hòn đảo không biết. Bạn không biết bạn ở đâu; bạn không biết gì về chỗ này. Từng bước là cuộc phiêu lưu vào trong miền đất lạ. Giống như Robinson Crusoe, bản thân bạn sẽ phải khám phá mọi thứ. Đây là nghĩa của cái ngã đơn giản. Với từng bước bạn sẽ khám phá các thứ như chúng vậy ở bên trong, bạn sẽ nếm trải vị nguyên thuỷ của rỗng.

Vị giả cũng có thể được tạo ra bên ngoài. Bạn phải đã thấy cách làm việc của nhà thôi miên. Nếu bạn chưa thấy, bạn có thể thử thực nghiệm này. Cho một đứa trẻ nằm ra và gợi ý với nó rằng nó đang ngủ say. Bạn có thể làm việc này không chỉ với đứa trẻ. Ba mươi phần trăm mọi người có thể bị tác động theo cách này. Sau một lúc, đứa trẻ rơi vào giấc ngủ. Cầm củ hành trước nó và nói, “Đây là táo, táo ngon. Ăn nó đi.” Đứa trẻ sẽ ăn nó và chép môi. Nó sẽ nói táo ngon.

Đây là thôi miên. Nhưng trong các thứ hàng ngày chúng ta cũng thôi miên bản thân chúng ta. Bạn có nhớ bạn đã cảm thấy gì khi bạn phà hơi thuốc lá lần đầu tiên không? Nhưng vì mọi người hút thuốc, nó phải thú vị. Khi bạn nhấm ngụm cà phê đầu tiên bạn có thích thú nó không? Cái này chẳng là gì ngoài thôi miên.

Và chúng ta được bảo vị ngon phải được nuôi dưỡng! Khi bạn uống cà phê lần đầu tiên bạn sẽ thấy nó đắng. Điều đó không phải là lỗi của cà phê. Bạn không được tinh tế; bạn còn vô văn hoá. Cứ uống cà phê qua một thời gian và bạn sẽ phát triển việc thấy vị ngon. Thế thì sẽ khó cho bạn vẫn còn lại mà không có cà phê. Cái gì đã xảy ra? Bạn đã thôi miên bản thân bạn, bạn đã bị thôi miên bởi bạn bè bạn và thậm chí bởi quảng cáo của Coffee Board. Bây giờ cà phê đã trở nên ngon lành. Nhưng vị này là giả; nó không đích thực.

Theo cùng cách, vị bên trong cũng có thể là giả. Do đó Lão Tử cổ vũ chúng ta đi theo cái ngã đơn giản bên trong.

Nếu bạn bị ấn tượng bởi Mahavira – và những người như Mahavira đều gây ấn tượng; rất khó không bị ấn tượng bởi họ – thế thì bạn đung đưa theo âm nhạc của ông ấy, bạn bị mang đi bởi hương thơm của ông ấy, bạn đánh mất bản thân bạn trong ông ấy. Thế thì bạn bắt giữ lời của ông ấy. Bạn nhận những lời này và đi vào bên trong. Bạn sẽ có được cùng vị mà Mahavira đã nói tới. Nhưng vị này sẽ là giả. Nó sẽ giống như vị cà phê – được nuôi dưỡng. Lời vang vọng bên trong bạn. Hình ảnh của Mahavira được thiết lập bên trong bạn; ý tưởng của Mahavira đã bắt giữ bạn. Bây giờ bạn sẽ sống trong thôi miên này. Nhưng kinh nghiệm này sẽ không phải là kinh nghiêm về cái ngã.

Mahavira cũng đã nói rằng đây không phải là việc nhận ra cái ngã. Ông ấy bảo những người đi theo ông ấy, “Ông sẽ không đạt tới cái ngã chừng nào ông chưa rời bỏ ta.” Ông ấy ngụ ý cái gì bởi điều này? Điều ông ấy đã ngụ ý là: “Để lời của ta gây hứng khởi cho ông, nhưng để chúng không trở thành các quan niệm của ông. Để lời của ta khuấy động cơn khát bên trong ông nhưng để chúng không trở thành nước làm dịu cơn khát của ông.”

Phân biệt này phải được hiểu rõ. Lời của tôi nên làm thức tỉnh cơn khát bên trong bạn, nhưng chúng phải không trở thành nước. Bạn phải không trở nên được thoả mãn bằng việc làm dịu cơn khát của bạn qua nước của lời tôi. Bằng không bạn sẽ bị lừa từ việc tìm ra phương tiện riêng của bạn để làm dịu cơn khát bên trong.

Trong cuộc sống tâm linh, bị ảnh hưởng là có lợi và không bị ảnh hưởng cũng là có lợi. Bạn phải có đủ năng lực để khuấy động cơn khát và đủ tỉnh táo để không đi vào bên trong việc giữ lấy lời. Lời của thầy phải không trở thành gánh nặng của bạn.

Lão Tử nói: “Tỉnh táo, tự nhiên và đi theo atman của ông. Từ bỏ tính ích kỉ của ông và cắt ham muốn của ông.” Tính ích kỉ ngụ ý cái gì? Không phải điều chúng ta thường ngụ ý, vì ông ấy đã bảo chúng ta bỏ cái đó từ lâu trước đây. Khi ông ấy đã bảo chúng ta dứt trí huệ và bỏ cái có lợi, tính ích kỉ không được ngụ ý cùng điều như chúng ta biết nó ngụ ý. Nó có nghĩa sâu sắc hơn. Chúng ta bỏ tính ích kỉ khi chúng ta từ bỏ thói quen nhìn mọi thứ từ góc độ có lợi.

Thế thì Lão Tử ngụ ý gì bởi tính ích kỉ? Ở đây, nghĩa của tính ích kỉ là việc lấy cái ngã làm trung tâm. Phiền phức trong cuộc sống của người thường là ở chỗ người đó lấy cái ngã làm trung tâm. Nếu người đó yêu ai đó đó là có chủ định. Chính chủ định này phá huỷ cuộc sống của người đó. Tất cả chúng ta đều là người lấy cái ngã làm trung tâm và chúng ta sử dụng nhiều phương tiện tinh vi cho mục đích này.

Mulla Nasruddin gõ cửa nhà một người rất giầu. Người này mở cửa. Mulla nói, “Một người đang mang nợ lớn, anh ta sắp chết. Giúp anh ấy đi.”

Người này rút ra một ru pi và đưa cho anh ta vừa nói, “Tư tưởng của anh là đức hạnh, đi và giúp người đó đi.” Mulla nhận tờ ru pi này. Khi anh ta sắp đi người này hỏi anh ta, “Tôi có thể biết tên của người đáng thương này được không?”

Mulla nói, “Đó là bản thân tôi.”

Sau hai tuần Mulla lại tới. Lần này người này nhìn anh ta một cách chăm chú và nói, “Dường như là ai đó đang bị nợ ngập cổ.”

Mulla nói, “Ông đúng.”

“Anh ta là người rất nghèo,” ông chủ nhà nói.

“Ông lại đúng,” Nasruddin nói.

“Và tôi cho rằng người đó là anh?” ông ta lại hỏi.

“Không,” Nasruddin nói, “lần này ông sai.”

Người giầu nói, “Tôi mừng khi nghe điều đó,” và ông ta cho Mulla hai ru pi.

Thế rồi, khi Mulla đi xuống bậc ông ta gọi với, “Tôi có thể hỏi ông một câu hỏi không người tốt? Tôi hiểu hứng khởi đằng sau sự hào phóng của ông lần trước nhưng động cơ nào đằng sau cảm giác từ bi và phục vụ của ông cho lần này?”

Mulla đáp, “Lần này chủ nợ là bản thân tôi. Con nợ là người rất nghèo; anh ta không thể trả lại tôi được. Cho nên tôi định đi quyên góp quĩ để cho anh ta có thể trả cho tôi. Bây giờ ông hiểu chứ?”

Nếu chúng ta nhìn bên dưới mọi hành động từ thiện và phục vụ, chúng ta sẽ thấy tính tư lợi ở rễ của nó. Tất cả chúng ta đều sống trong tư lợi.

Một người bỏ nhà, gia đình và kinh doanh của mình và đi vào rừng. Anh ta không thể có bất kì tư lợi nào; anh ta đã loại bỏ bản thân mình khỏi thế giới trần tục. Nhưng Lão Tử nói đây là đỉnh cao của lấy cái ngã làm trung tâm. Người đó nhấn mạnh vào việc tìm kiếm cái ngã của mình, vào việc đạt tới giải thoát, và việc tìm phúc lạc và gạt bỏ đau. Đây là ích kỉ liên quan tới thế giới khác. Nó là việc lấy cái ngã làm trung tâm một cách rõ ràng và đơn giản vì người này cũng bị lo nghĩ chỉ về cái ngã riêng của mình.

Lão Tử bảo chúng ta bỏ cái này nữa, vì cái này nữa cũng là cản trở trong việc biết cái ngã. Nếu tôi làm đầu tư vào việc biết cái ngã của tôi, nếu tôi cảm thấy rằng bằng việc đạt tới cái ngã tôi sẽ thu được phúc lạc thế thì sự hăm hở của tôi, mối quan tâm của tôi, sẽ không phải ở trong việc đạt tới atman mà trong việc đạt tới phúc lạc. Nếu tôi có thể đạt tới phúc lạc mà không trải qua nhiệm vụ gian nan về việc biết cái ngã, tôi sẽ không bao giờ nhận phiền phức của việc tìm cái ngã. Nếu ai đó bảo bạn rằng bạn sẽ biết cái ngã nhưng bạn sẽ không đạt tới phúc lạc, thế thì sao?

Chuyện kể rằng Junnaid, một sư khổ hạnh fakir người Sufi, đi tới thầy của ông ta. Thầy hỏi, “Ông đã tới vì cái gì?Trả lời trong một câu thôi. Ta không thích nói quá nhiều.”

Junnaid nghĩ cả đêm. Đến sáng thầy gọi ông ta. Junnaid nói, “Tôi muốn biết bản thân tôi.”

Thầy nói, “Nếu ông phải trải qua đau và khổ không kể xiết trong việc truy tìm, ông sẽ vẫn muốn biết bản thân ông chứ?”

Junnaid nói, “Tôi muốn biết bản thân tôi để đạt tới phúc lạc.”

“Đi và nghĩ lại đi,” thầy nói. “Khi ông đang trong việc tìm ananda (phúc lạc), tại sao ông nói ông đang đi tìm cái ngã của ông? Nếu ông tìm ananda và nếu nó không thể được đạt tới mà không có cái ngã, chủ định biết cái ngã là gì?”

Nietzsche đã nói rằng mọi người bị mắc vào trong nắm giữ của tôn giáo vì họ nghĩ họ có thể đạt tới phúc lạc qua chúng. Không ai quan tâm về Thượng đế hay hồn hay chân lí. Ngày bạn bạn nói cho họ tôn giáo chẳng liên quan gì tới phúc lạc, sẽ khó để phân biệt giữa trần tục và tôn giáo. Cả hai điều này đều chạy theo cùng một chủ định. Chúng dường như đang chạy theo các hướng khác nhau, nhưng đích là cùng một.

Một người tích luỹ của cải, vì người đó nghĩ người đó có thể thu được hạnh phúc qua nó. Một người cầu nguyện vì người đó cảm thấy lời cầu nguyện dẫn tới hạnh phúc. Không thành vấn đề hai người này có thể dường như mâu thuẫn làm sao trong hành động của họ, họ là không mâu thuẫn. Suy nghĩ của họ là một và cuộc hành trình của họ cũng là một. Không có khác biệt chút xíu nào.

Lão Tử nói: từ bỏ tính ích kỉ. Nếu bạn muốn biết cái ngã của bạn và trải nghiệm cái đơn giản, cái tự nhiên, đừng xây dựng bất kì mong đợi nào trên nó; tức là bằng việc biết cái ngã, tôi sẽ đạt tới cái này cái nọ. Phải không có ý nghĩ nào về đạt tới, không có tư lợi. Điều này là khó, nhưng không khó để truyền tư lợi của chúng ta từ thế giới trần tục sang moksha (giải thoát); không khó để dịch chuyển tư lợi của chúng ta từ của cải sang tôn giáo. Điều đó rất dễ.

Sự thực là ở chỗ một người càng tham, người đó càng dễ trở thành có tính tôn giáo. Dễ làm cho người đó hiểu: “Ông đang thu thập những hòn sỏi gì vậy? Tất cả những vàng và bạc này có đi cùng ông khi ông chết không? Nếu ông muốn của cải thực, đem cho từ thiện đi, cái sẽ có ích cho ông sau khi chết.” Nếu bạn là kẻ keo kiệt tầm thường có lẽ bạn có thể cảm thấy: “Chúng ta sẽ thấy cái gì xảy ra sau chết.” Nếu tham của bạn là mạnh mẽ bạn sẽ cân nhắc: “Nếu những đồng tiền này là vô dụng sau chết, để tôi chuyển một số thành tiền bạc có tác dụng ở chỗ kia.” Cho nên tham càng lớn, bạn sẽ càng nhanh chóng trở nên có tính tôn giáo vì bây giờ tham của bạn đã thu được chiều hướng mới mà nó có thể mở rộng. Nhưng chỉ những người không có tham mới có thể đi vào cõi tôn giáo. Họ không quan tâm tới giải thoát, tới phúc lạc hay cõi trời.

Lão Tử nói: bỏ tính ích kỉ của ông. Tính ích kỉ này là ở bình diện khác. Ở đây, nó được nhắc tới trong kết nối với việc tự biết mình. Không nghĩ về phúc lạc. Ai biết liệu bạn sẽ đạt tới nó hay không đạt tới nó? Ai biết bạn sẽ đạt tới cái gì ở đó? Không có đảm bảo về bạn sẽ tìm thấy cái gì ở đó. Bạn khởi hành để biết bằng hiểu biết đơn giản là bạn hiện hữu.

Không biết bản thân người ta là sự ngớ ngẩn lớn. Tôi hiện hữu, nhưng tôi không biết tôi là ai! Bạn khởi hành để biết bản thân bạn vì một mình lí do này: rằng bạn không biết bạn là ai, cho dù bạn hiện hữu. Để không có bất kì tư lợi nào khác. Không hi vọng đạt tới niềm vui, không hi vọng đạt tới tính bất tử hay tĩnh lặng hay thậm chí giải được huyền của cuộc sống. Không gắn điều kiện ràng buộc vào việc biết cái ngã. Người làm như vậy vẫn có mắt để vào việc đạt tới nào đó cho nên người đó sẽ đi lòng vòng bên ngoài bản thân mình. Người đó sẽ không đi vào bên trong. Người không có ham muốn nào còn lại, một mình người đó có thể đi vào bên trong. Do đó Lão Tử nói: “Chặn tính ích kỉ của ông. Cắt ham muốn của ông.”

Những ham muốn này là ham muốn của người tâm linh. Ham muốn của người trần tục kết thúc với lời kinh thứ nhất. Ham muốn tâm linh – điều này dường như mâu thuẫn. Chúng ta không thể tưởng tượng được rằng có thể có ham muốn tâm linh. Khi mà những ham muốn này vẫn còn dai dẳng, tính tâm linh không thể được sinh ra bên trong người ta. Những người chúng ta gọi là sannyasins luôn luôn là những người đã bỏ những ham muốn trần tục của họ và đã bắt giữ ham muốn tâm linh. Sannyasin đích thực là người không có ham muốn, không có cả ham muốn trần tục lẫn ham muốn tâm linh.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.20 Từ bỏ ham muốn tâm linh khải lộ cái ngã đơn giản

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471