Bao khắp là trời, trời là đạo

Lão Tử nói về những thứ xa xôi. Ông ấy nói rằng đạo đức là bệnh. Ông ấy nói rằng chừng nào cái đối lập, việc phân đôi, vẫn còn, nhất định có nghĩ nhiều. Chừng nào tôi còn cảm thấy cái này là tốt và cái này là xấu, việc phân đôi nhất định vẫn còn. Do đó, cái gọi là người đạo đức là người nghĩ nhiều. Người đó bao giờ cũng lo nghĩ về những thứ đang xảy ra đúng hay sai trên thế giới, dường như đó là toàn thể trách nhiệm của người đó. Lo nghĩ của người đó làm cho người đó nhiều đêm nghĩ nhiều và toàn thể cuộc sống của người đó được dành cho việc sửa đúng cho thế giới. Ở giữa mọi điều này người đó không thấy rằng chính cái ngã riêng của người đó cần sửa đúng.

Chính là hơi khó hiểu Lão Tử. Đó là lí do tại sao Lão Tử đã bị hiểu lầm ở phương Tây. Tư tưởng của ông ấy được coi là vô đạo đức. Làm sao người ta có thể vẫn còn công bình khi có xung đột thường xuyên giữa thiện và ác? Có lí do cho điều này. Nếu chúng ta nhìn bản thân chúng ta từ góc độ nhất thời và thay đổi, chúng ta không thể công bình được. Nếu chúng ta nhìn từ góc độ của luật vĩnh hằng, chỉ thế thì chúng ta có thể là công bình.

Thế giới trần tục, được nhìn từ chỗ của luật vĩnh hằng xuất hiện như mơ. Bạn ngủ ban đêm và thấy toàn thể ramayana diễn trong mơ của bạn. Bạn đồng nhất bản thân bạn với Rama nếu bạn là người đạo đức và với Ravana nếu bạn là người vô đạo đức. Nhưng khi thức dậy buổi sáng giấc mơ kết thúc; nó không còn nữa. Thế thì bạn sẽ chọn phía này hay phía kia? Nếu bạn chọn, thế thì biết rằng bạn vẫn đang ngủ. Nếu bạn nhận ra nó đã là mơ, điều đó không tạo ra khác biệt nào cho bạn dù Ravana thắng hay Rama thắng. Bây giờ bạn có thể chắc bạn thức, vì bây giờ bạn là công bình.

Với Lão Tử thế giới của thay đổi là mơ. Người được bao quanh bởi mơ, người bị buộc vào mơ của mình, bao giờ cũng sẽ là thiên vị. Bất kì chỗ nào có thiên vị, tồn tại không bao dung, không kiên nhẫn và buồn. Nếu bạn muốn vươn lên trạng thái phúc lạc, bạn sẽ phải là công bình và không phân biệt.

Người trở nên công bình phát triển sự oai nghiêm của vua. “Công bình thì bao khắp, bao khắp là Trời.” Nhưng oai nghiêm của vua không là gì khi so sánh với oai nghiêm của người trở nên công bình vì tĩnh lặng trong người đó thách thức mọi tưởng tượng. Mắt người đó trở nên trong suốt do việc thiếu vắng thiên vị. Chuyển động của người đó là uyển chuyển không run. Chúng ta run suốt cuộc sống vì các thiên vị của chúng ta.

Bây giờ các nhà khoa học đã chứng minh rằng có thiên vị trong ngôn ngữ thân thể của chúng ta. Nhiều nghiên cứu đang được tiến hành trên điều này. Cách bạn đứng trước một người chỉ ra liệu bạn có trong thiện cảm với người đó hay không. Nếu bạn chống lại người này, bạn sẽ cố đứng xa khỏi người này; bạn muốn ở xa nhất có thể được với người này. Nếu bạn có thiện cảm với người này, bạn có xu hướng tới gần hơn, về mặt thể chất cũng như tâm trí.

Đàn bà phản bội lại cảm giác của cô ấy qua hành động thân thể của cô ấy. Những người tiến hành nghiên cứu trong ngôn ngữ thân thể nói rằng nếu người đàn bà yêu bạn, cách ngồi của cô ấy trước bạn sẽ khác. Nếu cô ấy không yêu bạn, nó sẽ khác. Từng phần thân thể cô ấy cho các dấu hiệu của cảm giác của cô ấy. Thân thể chúng ta cho những chỉ dẫn về cảm giác của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nếu bạn đi qua một nhà thổ, bạn bước nhanh hơn trong trường hợp ai đó nhìn thấy. Nếu bạn đi qua đền, tay bạn tự động chắp lại trong tôn kính. Những cái thích và không thích của chúng ta rung động qua thân thể liên tục.

Công bình thì bao khắp, bao khắp là Trời.” Lão Tử nói. Có lẽ ông ấy đã không thể tìm ra sự so sánh tốt hơn vì các vua nói chung không phải là công bình. Jesus có lần đã nói với đệ tử của ông ấy, “Nhìn những hoa loa kèn đang nở đầy kia. Oai nghiêm của vua Solomon dường như lu mờ và phai nhạt trước chúng.” Người đạt tới cùng chân giá trị này, cùng sự oai nghiêm này, mà hoa đạt tới khi nó nở ra. Đó là cái oai nghiêm của không rung động, cái bất động, cái ổn định. Điều đó giống như chiếc đèn cháy trong phòng. Khi không có làn gió nào, ngọn lửa cháy một cách vững chãi; không rung rinh. Tương tự, khi ý thức của một người trở nên vững vàng bên trong, nó không rung rinh. Đó là oai nghiêm của nó.

Có hai cách làm điều này. Một là: chúng ta dính vào thiên vị của chúng ta, nhưng ép buộc ý thức trở thành cố định – như cái gọi là sadhus làm điều đó. Thiên vị của họ vẫn còn lại: về tốt và xấu, về có giá trị và vô giá trị, vân vân. Việc cố định ý thức bị ép buộc như vậy là cố định giả. Hơi chút thảnh thơi và ý thức bắt đầu chảy hướng tới cái thích của chúng ta xa khỏi cái không thích của chúng ta.

Có cách khác, cách mà Lão Tử nói tới. Ông ấy nói không lo nghĩ về việc cố định ý thức. Biết luật vĩnh hằng, nhận ra thế giới của thay đổi, và bạn thấy mọi thiên vị đã rơi rụng đi. Khi công bình được đạt tới, bạn trở nên ổn định. Bây giờ không chỗ nào còn lại nơi bạn có thể run; không chỗ nào để cúi mình, không chỗ nào để đem bản thân bạn đi xa. Trạng thái không run này tới một cách tự nhiên. Không có điều này, mọi tính thánh nhân là tính thánh nhân được trau dồi; nó là kìm nén.

Khác biệt này là rõ ràng một cách dễ dàng. Bất kì khi nào một người đạt tới tính thánh nhân tự nhiên, người đó đạt tới cái đẹp không thể nào xác định được. Bất kì khi nào một người áp đặt tính thánh nhân lên bản thân mình, người đó đạt tới cái xấu mãnh liệt. Cái xấu này xảy ra một cách tự nhiên vì nó lấy nhiều căng thẳng để đạt tới tính thánh nhân của người đó. Một thánh nhân tự nhiên là rất khó tìm thấy, nhưng chỉ người là tự nhiên mới có thể là thánh nhân.

Có lần tôi đã du hành cùng một sadhu. Tôi đi và ngồi trong khoang nhưng ông sadhu này từ chối bước vào. “Tôi không thể ngồi ở chỗ ngồi có nệm,” ông ta nói. Thế là một chiếu tre được trải lên chỗ ngồi và ông ta được thoả mãn: ông ta không dùng chỗ ngồi có nệm. Bạn có thể cảm thấy cái gì khác cho người như vậy ngoại trừ thương hại? Ô tô là như nhau, chỗ ngồi là như nhau, nhưng ông ta tin ông ta đang ngồi trên chiếu: Ông ta đã bảo vệ tính đơn giản của mình. Người sống bằng việc canh chừng các ý tưởng của mình làm cho mọi thứ xung quanh người đó thành xấu và què. Ý thức của người đó thường xuyên chấn động.

Lão Tử nói, “Công bình thì bao khắp, bao khắp là Trời.” Thêm một điều nữa phải được nhớ trong hoàn cảnh này. Là đế vương ngụ ý: cái chạy theo sau các thành tựu, từ bỏ các vật, chọn cái này hay cái nọ, – tất cả những cái này trở thành vô nghĩa với người đó. Dù người đó ở bất kì chỗ nào, người đó là vua. Dù người đó đứng ở trong cung điện hay trên phố trống, sự oai nghiêm của người đó vẫn còn không bị ảnh hưởng. Cung điện không thể làm người đó sợ, cây cối không thể làm người đó khó chịu. Người đó ngủ an bình ở cả hai nơi. Bất kì chỗ nào người đó ở, dù người đó là thế nà, người đó sống như vua – trong oai nghiêm của hoàng đế.

Chúng ta thấy một người như Phật. Bên ngoài cung điện của mình, ông ấy không kém hơn nhà vua. Có lẽ ông ấy có vẻ oai nghiêm hơn. Quần áo giúp che giấu cái xấu. Do đó qui tắc của quần áo sẽ vẫn còn lại chừng nào còn có khan hiếm cái đẹp trên thế giới này. Quần áo giúp người xấu làm giảm bớt cái xấu của người đó. Nhưng khi một người cực kì đẹp, cái đẹp của người đó được tôn lên khi quần áo của người đó rơi xuống. Khi người khổ được cho ngồi lên ngai vàng, tính ti tiện của người đó bằng cách nào đó bị ẩn đi bởi cung điện, nhưng không thể đạt tới sự oai nghiêm. Và nếu một người đã đạt tới sự oai nghiêm và bạn lấy đi cung điện của người đó, ngai vàng và vương miện của người đó, sự oai nghiêm của người đó sẽ làm lộ bản thân nó ra còn sắc nét hơn qua sự trần trụi của người đó.

Sự oai nghiêm này của vua là kết quả của việc làm chủ bên trong. Người bị buộc vào thế giới đang thay đổi bao giờ cũng là nô lệ. Người đó sẽ phải phụ thuộc vào ai đó hay người khác suốt cả đời mình. Người đó phải phục tùng cả nghìn thay đổi. Người thoát khỏi thế giới của thay đổi và đồng nhất bản thân mình với cái vĩnh hằng trở thành người chủ. Người đó không phụ thuộc vào người nào. Người đó trải qua mọi thay đổi như người chủ. Quyền làm chủ của người đó là bản chất.

Công bình thì bao khắp. Bao khắp là Trời, Trời là Đạo.”

Duy nhất những người có thể đi vào cõi tôn giáo sâu là người đã đạt tới sự oai nghiêm của vua. Không ai có thể đi vào bằng đi xin và van xin.

Jesus đã nói, “Những người sở hữu sẽ được cho nhiều hơn và những người không sở hữu nhiều thứ sẽ bị lấy đi khỏi họ.” Trên bề mặt nó, nói ra điều này sẽ là điên khùng. Nhưng đây là luật của thế giới phản vật chất. Điều đó là luật rất mâu thuẫn. Ngay cả người thường cũng biết rằng người không có gì phải được cho và, nếu bạn phải lấy đi, lấy từ những người có. Nhưng Jesus nói điều đối lập: “Nếu ông có, ông sẽ được cho nhiều hơn, nếu ông không có, chút xíu ông có sẽ bị lấy đi khỏi ông.”

Không ai có thể đi vào cõi này như người ăn xin. Duy nhất ‘vua’ có thể làm ra lối vào của ông ấy ở đó. Thực ra, chìa khoá cho thế giới này là việc làm chủ, tính quí tộc. Đó là lí do tại sao chúng ta gọi sannyasin là “swami”. Điều này không ngụ ý rằng mọi sannyasin là swami. Chúng ta ngụ ý việc làm chủ bên trong khi chúng ta nói “swami”. Đó là chìa khoá để đi vào cung điện: cái mà Lão Tử nói tới như Đạo; Phật nói tới như pháp, Veda nói tới như rit và Jesus nói tới như vương quốc của Thượng đế. Khác biệt không chỉ về lời. “Phù hợp với tự nhiên, người đó phù hợp với Đạo.”

Phù hợp với tự nhiên, người đó phù hợp với Đạo.” Chừng nào chúng ta còn được liên kết với thế giới nhất thời, chúng ta liên kết bản thân chúng ta với phá huỷ. Chúng ta sẽ mãi mãi ở trong vòng sinh tử. Chúng ta sẽ cứ liên tục lấy các thân thể mới và bỏ chúng. Chúng ta càng đồng nhất với cái nhất thời, chúng ta càng thiên về phá huỷ. Thế thì chúng ta chết mọi ngày và được sinh ra mọi ngày. Chúng ta đồng nhất bản thân chúng ta với thân thể cho nên chúng ta chết sau năm mươi, sáu mươi hay bẩy mươi năm.

Có phần tử bên trong chúng ta mà chúng ta không phải thay đổi như chúng ta thay đổi quần áo, phần tử mà là ổn định và, khi chúng ta được đồng nhất với nó, không còn có chết nữa? Chết tới vì chúng ta đồng nhất bản thân chúng ta với cái nhất thời, cái vô thường. Ngày chúng ta phá vỡ mối quan hệ của chúng ta với cái vô thường, chết không còn hiện hữu; và cái mà bạn được thống nhất cùng với nó là không chết, là bất tử.

Lão Tử nói, “Phù hợp với Đạo, người đó là vĩnh hằng.” Do vậy cuộc sống vĩnh hằng của người đó đi ra ngoài đau và buồn.

Bất hạnh là gì? Nó là cái bóng của chết: cái bóng dài của chết. Bất kì chỗ nào chết là rõ ràng, có đau. Bất kì chỗ nào chúng ta có thể quên chết đều là những khoảnh khắc hạnh phúc của chúng ta. Nhưng người thấy bản thân mình trong cái vòng luẩn quẩn vì không cái gì bị quên đi bởi việc quên.

Một hôm Mulla Nasruddin được thấy đang uống rượu. Anh ta ngồi dưới cây trước cửa nhà và uống hết cốc nọ tới cốc kia. Anh ta có một khách ở nhà, người này hỏi anh ta, “Mulla, sao anh uống nhiều thế?”

Mulla đáp, “Để cho quên.”

Khách hỏi, “Quên cái gì?”

“Tính trơ tráo của tôi”, Mulla đáp, “Tội của tôi, tội ác của tôi.”

“Tội của anh là gì?” khách hỏi, “Tội ác của anh là gì?”

Nasruddin nói, “Chính điều này: sự xấu hổ rằng tôi uống quá nhiều, tội uống rượu đè nặng lên tôi tới mức tôi phải quên nó đi. Do đó, tôi uống.”

Nếu chúng ta xem xét kĩ các hành động của mình, chúng ta sẽ thấy chính việc này trong các kiếp sống của chúng ta nữa. Chúng ta ở trong cái vòng luẩn quẩn. Quên cái này, chúng ta bắt lấy cái khác và gạt bỏ cái đó, chúng ta tóm lấy cái thứ ba. Thế rồi chúng ta quay lại cái thứ nhất để tránh cái mà theo thứ tự chúng ta đã làm mọi thứ còn lại.

Chúng ta du hành nhiều trong cái vòng luẩn quẩn này nhưng chẳng đạt tới đâu cả. Không có cách nào để đạt tới. Buồn là ở chỗ chúng ta không có hiểu biết về vui, chúng ta chỉ biết buồn. Nhiều lúc chúng ta xoay xở để quên lời nguyện và nhận lầm nó là hạnh phúc. Nhưng các thứ mà với chúng, chúng ta cố quên đi buồn của mình lại mang tới nhiều đau hơn trong khi thức của chúng; cho nên chúng ta bị mắc vào trong vòng luẩn quẩn.

Một sự kiện chúng ta phải hiểu sâu. Chừng nào tôi còn thiên về chết, tôi không bao giờ có thể hạnh phúc, không thành vấn đề tôi cố thế nào. Chết đứng trước tôi; và cái bóng của nó mãi mãi phủ lên tôi. Nó sẽ thấm chất độc của nó vào mọi niềm vui trong tôi. Bạn tận hưởng bữa ăn, nó rất ngon. Thế rồi ai đó bảo bạn rằng bạn sắp bị tử hình tối nay. Mọi vị ngon sẽ tan biến ngay lập tức. Vẫn ăn cái bạn sẵn lòng ăn, vị ngon sẽ không quay lại. Bạn cảm thấy bản thân bạn trong cõi trời với người yêu của bạn ở bên bạn. Đột nhiên ai đó nói rằng bạn sẽ bị giết trong một thời gian ngắn. Bạn sẽ ngay lập tức quên đang có ai đó ngồi bên bạn. Mọi thứ sẽ trở thành vô nghĩa.

Camus đã viết, “Làm sao hạnh phúc có thể tồn tại lâu khi có chết?” Con vật dường như hạnh phúc vì chúng không có hiểu biết về chết. Người là bất hạnh vì người nhận biết về chết.

Những người ở gần con vật dường như hạnh phúc vì họ quên chết. Chết hiện hữu, nhưng vấn đề bao giờ cũng là người khác chết. “Tôi sẽ không bao giờ chết vì bao giờ cũng là người khác chết cho tới giờ, A hay B hay C nào đó, tôi vẫn sống. Thế thì bằng chứng nào có đó rằng tôi sẽ chết?” Logic thẳng thừng và đơn giản.

Con vật không có hiểu biết về chết, vì chúng không có hiểu biết về thời gian, chúng không có hiểu biết về tương lai. Do đó, theo một cách nào đó chúng hạnh phúc. Người có hiểu biết về chết do đó người có thể là bất hạnh nhất hoặc có thể làm những thu xếp nhiều nhất để quên bất hạnh. Chỉ có hai lối mở cho người. Người không thể hạnh phúc chừng nào người đó chưa hiểu Lão Tử, cho tới khi người đó đồng nhất bản thân mình với cái vĩnh hằng.

Con vật có thể hạnh phúc vì chúng không có cảm giác về chết. Người không thể hạnh phúc được như con vật hạnh phúc. Vì người một mình đã đi xa hơn trong cuộc hành trình của mình và đã đi lên trước con vật. Người trẻ không còn cảm thấy sung sướng trong những thứ làm trẻ con thích thú, cho dù anh ta đã có thời là đứa trẻ. Người già không còn nhận được vui thú từ các thứ mà đã làm hài lòng người đó trong tuổi trẻ. Không đồ chơi nào làm vui thanh niên và không vui thú xác thịt nào kích động người già. Khi ý thức đi lên trước, mọi vui thú ở mức thấp hoá ra vô nghĩa.

Người không thể nhận được vui theo cùng cách như con vật, và vậy mà đó là cái người đó phấn đấu vì nó. Người đó trở nên bất hạnh trong quá trình này. Lí do là ở chỗ ý thức chỉ có thể du hành tiến tới; nó không bao giờ có thể rơi lại sau.

Chừng nào cái bóng của chết vẫn còn dai dẳng, người không thể hạnh phúc. Thế thì cái gì cần được làm? Một cách là cứu thân thể khỏi chết lâu nhất có thể được. Nhưng không thành vấn đề chúng ta có thể đẩy lùi chết lại bao xa, nó vẫn có đó trước chúng ta. Chúng ta có thể đẩy nó lùi lại vài ngày, vài tháng, vài năm, nhưng nó vẫn lù lù ra đấy trước chúng ta. Một người có thể sống tám mươi năm hay một trăm năm hay thậm chí một trăm năm mươi năm, nhưng chết tuyên bố nó ở chỗ cuối.

Sự thực là, một người càng sống, người đó càng trở nên nhận biết về chết. Nếu đứa trẻ mười tuổi chết, nó chết mà không có hiểu biết về chết. Nếu một người bốn mươi tuổi chết, người đó chỉ hơi chút nhận biết về chết, nhưng khi một người già tám mươi tuổi chết, người đó chìm ngập rất nhiều trong hiểu biết về chết. Khi một người một trăm năm mươi tuổi chết, hiểu biết về chết của người đó thậm chí còn sâu sắc hơn. Nếu chúng ta thành công trong việc kéo dài tuổi con người tới một nghìn năm, hiểu biết về chết sẽ trở thành không thể chịu nổi. Khi tuổi tiến từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, mọi thứ ngụ ý nhiều thế vào giai đoạn này trở thành vô nghĩa, chúng trở nên không nhiều hơn đồ chơi đơn thuần. Thế rồi một trạng thái tới khi không cái gì giữ bất kì nghĩa nào ngoại trừ chết; mọi nghĩa khác bị mất.

Do đó, người trí huệ trong nhân loại trở nên nhận biết sắc bén về chết. Khi Phật thấy một cái xác, ông ấy lập tức nhận ra rằng cuộc sống là vô ích. Nhưng chúng ta không nghĩ theo cách này, chúng ta trải qua hàng trăm tang lễ nhưng mọi điều chúng ta nghĩ là, “Người đáng thương nào đó chết.” Chúng ta cảm thấy thương tiếc cho người đó và sâu bên trong chúng ta, chúng ta sung sướng là chúng ta vẫn còn sống. Đó là hiệu quả duy nhất mà chết của người khác có trên chúng ta.

Thấy một người chết, Phật cảm thấy cái chết riêng của ông ấy. Nhà thơ Ai len Munro đã nói, “Bất kì khi nào bất kì ai chết, chính là tôi chết. Do đó, đừng cố tìm xem đó là đám tang của ai. Đó là đám tang của tôi.” Phật thấy cái chết riêng của ông khi ông ấy thấy một người chết. Nếu chết là chắc chắn, sống là vô ích.

Cho nên atman càng nhạy cảm, nó càng nhanh chóng bắt lấy cái bóng của chết. Bạn mất tám mươi năm để trở nên già. Phật đã già vào lúc ông ấy hai mươi tuổi.

Điều này không ngụ ý, như nó nói chung được hiểu ở Ấn Độ, rằng chỉ người già sẽ nhận tính sannyas. Nhiều người tới tôi và bảo tôi rằng tôi nên khai tâm chỉ cho những người trên bẩy mươi tuổi vào tính sannyas. Tôi bảo họ, chúng ta không bao giờ biết khi nào một người là già. Một số người, nhiều người, thậm chí không già ở tuổi bẩy mươi nhăm. Dễ là già về mặt thể chất, nhưng không dễ thế để là già về mặt tâm trí.

Là già là quá trình thể chất tới một cách tự nhiên với tuổi già. Nhưng trưởng thành tới qua trí tuệ, là điều khác hoàn toàn. Một số người trở nên trưởng thành rất sớm trong cuộc đời, như Phật, người đã trưởng thành vào độ tuổi hai mươi. Điều không xuất hiện cho người ở tuổi tám mươi, đã xuất hiện cho Phật ở tuổi hai mươi. Ông ấy đã trưởng thành đủ để nhận ra rằng chết là chắc chắn. Bây giờ, khi nào chết sẽ tới là chuyện phụ điều ông ấy sẽ bỏ lại cho người ngu tranh cãi. Với ông ấy, khi nào chết sẽ tới không tạo ra khác biệt. Điều quan trọng chủ chốt với ông ấy bây giờ là tìm ra liệu có cái gì đó bên trong ông ấy mà là bất tử, không chết. Nếu không có, thế thì mọi thứ là vô nghĩa. Nếu có, thế thì tìm cội nguồn bất tử là chủ định hữu dụng nhất trong cuộc sống.

Lão Tử cũng nói, “Người thiết lập bản thân mình trong Đạo trở thành bất tử, không chết.” Chết không còn tồn tại cho ông ấy. Người ở bên ngoài chết là ở bên ngoài toàn thể loạt buồn và đau, vì mọi đau là đau của việc không còn nữa. “Điều tôi sẽ không là hạt bụi” là nguyên nhân của buồn của tôi. Trở thành không chết là bắt đầu của phúc lạc.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.16 Cánh cửa của Đạo – kiên nhẫn và vô định kiến

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471