Dòng cuối của lời kinh hôm qua đã bị bỏ lại được giải thích một nữa. Chúng ta sẽ bắt với chúng hôm nay. Đối với đặc trưng của thánh nhân, Lão Tử đã nói trong chỗ cuối rằng họ là rỗng như thung lũng và khiêm tốn như nước bùn. Cách chúng ta sống, cách thức sống của chúng ta, không phải là việc là rỗng mà, thay vì thế, là việc là đầy. Dù chúng ta chất đầy bản thân chúng ta bằng của cải hay tôn vinh hay địa vị hay tri thức, hay dù chúng ta chất đầy bản thân chúng ta bằng từ bỏ, tất cả chúng ta đều hăm hở chất vào bản thân chúng ta. Dường như là sâu bên trong có nhiều rỗng tới mức nó đang ăn vào trong các phần sống còn của chúng ta. Chúng ta phấn đấu chất đầy bản thân chúng ta để gạt bỏ rỗng này.
Một điều là ở chỗ chúng ta cố chất đầy bản thân chúng ta suốt mọi kiếp sống của chúng ta và điều khác là ở chỗ, chung cuộc, chúng ta thấy bản thân chúng ta vẫn rỗng như trước. Không ai đã từng có khả năng chất đầy bản thân mình. Bất kì vật nào, bất kì hướng nào, dù nó là của thế giới này hay thế giới tiếp, chúng ta vẫn còn rỗng, trống vắng. Sikandar chết với hai bàn tay rỗng, Einstein cũng vậy; mọi người vĩ đại của thế giới cũng vậy; tất cả họ đều bỏ lại bàn tay rỗng. Từ thơ ấu, chúng ta bắt đầu cuộc đua này để chất đầy bản thân chúng ta. Mọi kiếp sống của chúng ta được dành cho việc theo đuổi này và vậy mà chúng ta chết đi như rỗng như chúng ta đã được sinh ra. Những người thất bại trong cuộc sống chết đi với bàn tay rỗng, nhưng những người coi bản thân họ là thành công, họ nữa cũng chết đi với bàn tay rỗng.
Những người đã thất bại ít nhất cũng có hi vọng nào đó về việc được chất đầy nếu như họ thành công. Người đã thất bại an ủi bản thân mình rằng vận may đã chống lại mình hay tình huống đã không cho phép anh ta và do đó anh ta thất bại. Nhưng những người thành công không có cớ nào bỏ lại. Họ không thể nói họ không có cơ hội. Sikandar đã không thể đưa ra bất kì cái cớ nào cho rỗng của ông ta. Suốt cuộc đời mình, ông ta đã không mệt mỏi chất đầy bản thân mình, và vậy mà ông ta vẫn còn rỗng bên trong. Bản tính của điều chúng ta phấn đấu chất đầy là việc là rỗng, và do đó nó không thể được chất đầy. Định nghĩa cuối cùng và cơ sở mà Lão Tử cho về thánh nhân là ở chỗ ông ấy là rỗng như thung lũng. Người chấp nhận rỗng của mình và không làm cố gắng để chất đầy bản thân mình – không từ thất vọng hay chán ngán, hay cảm giác thất bại – là thánh nhân.
Nhà thơ nổi tiếng người Hindu Dinkar đã viết một cuốn sách mang tựa đề Dành cho người thất bại, tên của Trời. Những người thua chẳng có gì ngoài tên của Trời, tên của Trời được bỏ lại với họ. Người thua không có khả năng lấy tên của Thượng đế. Nhưng vì người đó bất lực, người đó chẳng có gì khác để làm theo, người đó bị buộc phải làm như vậy.
Dễ cho chúng ta hiểu rằng tay người thua là tay rỗng, nhưng tay người được cũng chứng tỏ là rỗng. Điều này là vì bản chất bên trong của chúng ta, là việc là rỗng. Chúng ta không thể chất đầy cái rỗng bên trong chúng ta cũng như không thể làm tối mặt trời vì chính bản chất của mặt trời là được chất đầy bằng ánh sáng.
Không cái gì có thể được làm ngược lại bản tính của chúng ta. Mọi nỗ lực để làm như vậy trở thành không thành công lúc cuối cùng. Những người định đi ngược lại tự nhiên bị thất bại chung cuộc. Họ bị chất đầy bởi buồn và đau; bản ngã của họ bị tổn thương, cuộc sống của họ trở thành câu chuyện dài những đau buồn và thất vọng.
Theo Lão Tử, thánh nhân không phải là người phải dùng tới tên của Thượng đế vì ông ấy bị thất bại trong cuộc sống và do đó, đã sẵn sàng cam chịu chấp nhận số phận của mình như nó vậy. Lão Tử nói, “Thánh nhân biết rằng chính bản tính của chúng ta là rỗng. Đó là kinh nghiệm thực sự mà ông ấy chấp nhận.” Ông ấy cũng biết rằng chính nỗ lực vô ích là đi ngược lại tự nhiên. Làm như vậy là ngu xuẩn. Đây không phải là chủ nghĩa thất bại; nó là hiểu biết. Thánh nhân khám phá ra qua trí huệ của ông ấy, qua sự trưởng thành được phát triển của ông ấy. Ông ấy hiểu – vì ông ấy đã trải nghiệm cuộc sống – rằng chính bản tính của atman, sự tồn tại bên trong một người, là rỗng. Rỗng là phẩm chất của nó.
Nhớ, một mình rỗng có thể là vô hạn. Không cái gì là đầy mà có thể là vô hạn. Bất kì chỗ nào một thứ bắt đầu đầy, biên giới hình thành. Ngoài ra, một mình rỗng có thể được thiết lập bên trong cái ngã riêng của nó. Tính đầy bao giờ cũng được đạt tới qua cái gì đó khác. Lấy một cái bình rỗng. Bình rỗng ngụ ý nó chỉ là cái bình. Một khi nó đầy, đó là vì cái gì đó được thêm vào cho nó, dù đó là nước hay sỏi hay đất hay vàng. Nó chỉ có thể được chất đầy bằng các vật mà là xa lạ với nó. Nếu chúng ta muốn chỉ là bản thân chúng ta, chúng ta sẽ phải là rỗng. Nếu chúng ta chất đầy bản thân chúng ta, nó bao giờ cũng được chất đầy bởi cái là xa lạ với chúng ta.
Hình thể thuần khiết nhất của cái ngã bao giờ cũng là rỗng; vì ngoại trừ cái ngã, không có gì ở đó. Bất kì khi nào chúng ta chất đầy bản thân chúng ta, cái khác trở nên hiện diện. Đây là phiền phức của chúng ta. Chúng ta chất đầy bản thân chúng ta bằng cái khác: bạn, người yêu, người thân, vợ hay chồng, của cải, địa vị vân vân. Nhưng cái khác không bao giờ có thể xuyên thấu vào trong cái ngã; nó bao giờ cũng vẫn còn ở ngoài. Mọi kiếp sống trôi qua bởi cuộc đua điên này để chất đầy bên trong; mọi năng lượng của chúng ta bị hướng vào trong việc theo đuổi này. Chung cuộc chúng ta thấy rằng bên trong là rỗng như bao giờ.
Lão Tử nói, “Thánh nhân sống trong rỗng.” Ông ấy không chất đầy bản thân mình bằng cái khác, không thành vấn đề cái khác là cái gì. Lão Tử nói: “Thánh nhân cũng không chất đầy bản thân ông ấy bằng Ishwara (Thượng đế). Ông ấy cũng không chất đầy bản thân mình bằng tôn giáo hay hành vi tốt.” Chính tôn giáo của thánh nhân là rỗng, chính Thượng đế của ông ấy là rỗng; vì là rỗng chính là Đạo, luật vũ trụ.
Cái rỗng này làm chúng ta kinh sợ. Chúng ta kinh sợ ngay cả là một mình với bản thân chúng ta. Nếu không có ai cùng chúng ta, chúng ta cảm thấy chán; chúng ta cảm thấy cuộc sống là vô dụng. Người khác là rất cần thiết. Chính một sự kiện thú vị là không người nào trong chúng ta được chuẩn bị để sống với bản thân chúng ta, một mình. Chúng ta có thể sống cùng người khác, không với cái ngã riêng của chúng ta. Ngoài ra, chúng ta, người không thể chịu được việc hiện hữu với bản thân chúng ta, một mình, cảm thấy rằng người khác sẽ hạnh phúc trong nhóm của chúng ta. Người khác cũng có cùng ý kiến này. Người đó nữa cũng không thể chịu được là một mình với bản thân người đó. Và chúng ta hi vọng là hạnh phúc trong nhóm của người đó! Do vậy chúng ta phụ thuộc vào lẫn nhau. Sự phụ thuộc này là ngu xuẩn tới mức người mà chúng ta phụ thuộc vào là phụ thuộc tương đương vào chúng ta. Chúng ta sống bằng sức mạnh của người đó; người đó sống bằng sức mạnh của chúng ta.
Tất cả chúng ta đều yếu, và vì tất cả chúg ta là yếu, chúng ta không thể chú ý tới ảo tưởng về liên thuộc. Tính thánh nhân là nỗ lực để nhìn thực tại. Đó là nỗ lực để nhìn thực tại như nó vậy. Người sẵn sàng nhìn thực tại sớm bắt đầu trải nghiệm niềm vui của nó. Những người đã nhận ra rằng chất đầy bản thân người ta là ở trong địa ngục, đã dừng việc chất đầy bản thân họ và chọn là rỗng. Họ nhận biết về sự kiện rằng “Tôi là rỗng.”
Điều thú vị là để ý rằng trong vòng hai trăm năm qua, thế giới phương tây đã tạo ra khối lượng tối đa các đồ vật mà người có thể muốn sở hữu. Nhà được chất đầy bằng mọi thứ tiện nghi; công nghệ đã chất đầy trái đất. Người bình thường sở hữu các thứ mà thậm chí hoàng đế thời xưa đã không thể mơ được. Phương Tây được chất đầy với mọi thứ mà người cần – và còn nhiều hơn nữa. Và vậy mà, một cảm giác, đã trở nên nổi bật nhất trong mọi người của phương Tây trong tiến trình hai trăm năm qua, là cảm giác về trống rỗng.
Từ quan trọng nhất ở phương Tây ngày nay là trống rỗng. Camus, Sartre, Heidegger, tất cả đều nói về trống rỗng. Họ nói, “Cuộc sống là tuyệt đối trống rỗng.” Họ trăn trở rằng trống rỗng này không thể được chất đầy. Không xã hội nghèo nào đã bao giờ có thể cảm thấy trống rỗng của phương Tây vì khi dạ dầy còn rỗng, trống rỗng của hồn không thể được cảm thấy. Thế thì mọi thời gian được dùng trong việc chất đầy cái bụng rỗng. Ngày nay, phương Tây đã thành công trong việc chất đầy dạ dầy, chất đầy thân thể. Và vậy mà họ trải nghiệm rằng tất cả là rỗng; không có cái gì bên trong.
Lão Tử nói: “Người chỉ biết hai cách giải quyết với trống rỗng này: hoặc người đó cố chất đầy nó, hoặc quên nó.” Đầu tiên người đó cố chất đầy nó, như Sikandar đã làm. Khi người đó thấy điều này là không thể được, người đó cố quên nó bằng việc dùng ma tuý, bằng mê đắm trong rượu, đàn bà và bài ca. Nhưng, Lão Tử nói, nó không thể được chất đầy và nó không thể bị quên.
Qui tắc cùa cuộc sống là rất kì lạ Bạn càng cố quên một thứ, bạn càng nhớ nó. Bạn không thể quên được một thứ bằng việc ước muốn quên nó, vì trong nỗ lực để quên của bạn, bạn phải nhớ cái mà bạn muốn quên. Khi một người dùng rượu cồn để nhận chìm việc nhớ về rỗng này, người đó thực tại nhớ nó theo cách rất sâu. Khi người đó trở về ý thức, việc nhớ sẽ là sâu sắc tương đương – và còn nhiều hơn thế, với việc nhận ra rằng nó không thể nào bị giũ sạch và người đó đã làm hại thân thể mình trong việc trả giá lại. Cảm giác rỗng vẫn còn như nó đã vậy. Bây giờ nó được cảm thấy sâu hơn; nó trở thành hiển nhiên hơn. Rỗng này không bao giờ có thể bị chất đầy hay bị quên đi.
Lão Tử nói các thánh nhân là những người không chất đầy không quên lãng. Họ chấp nhận rỗng bên trong họ. Và thế thì, việc xảy ra kì diệu, phép màu, xảy ra. Người chấp nhận rỗng của mình thấy rằng mình không còn là rỗng.
Điều này sẽ dường như là khá khó hiểu. Thực tại, rỗng bên trong được làm nổi bật bởi sự háo hức chất đầy nó. Chúng ta càng háo hức, chúng ta càng cảm thấy rỗng bên trong. Một khi chúng ta đã chấp nhận sự kiện rằng chúng ta là rỗng và từ bỏ mọi khao khát chất đầy bản thân chúng ta – khi chúng ta không làm nỗ lực nào để quên rỗng và chúng ta chấp nhận nó một cách đầy đủ – không phải là có rỗng bên trong tôi mà thay vì thế, rằng ‘tôi là rỗng’ – chỉ thế thì rỗng biến mất.
Để rỗng là sống động, điều đó yêu cầu bối cảnh mong đợi về hoàn thành, cũng như phấn trắng là cần để viết lên bảng đen. Mầu trắng của phấn nổi bật trên mầu đen của bảng. Mầu đen làm nổi mầu trắng. Để trải nghiệm bất kì cái gì, cái đối lập được cần tới. Do đó rỗng trở thành sống động vì sự háo hức của chúng ta để là đầy. Khi háo hức để là đầy này không còn đó, cảm giác về rỗng cũng mất đi.
Chúng ta trải nghiệm đau vì chúng ta có mong đợi về vui. Khi không có ham muốn về hạnh phúc, không có trải nghiệm về bất hạnh. Chết gây kinh hoàng cho chúng ta vì chúng ta ôm giữ sống. Nếu chúng ta không ôm giữ sống, chết sẽ không có nghĩa. Chửi châm chích chúng ta như gai vì chúng ta hăm hở với hoa của vinh và khen. Nếu chúng ta không khao khát hoa, gai sẽ biến mất theo cách riêng của chúng. Cái đối lập bao giờ cũng là cần để trải nghiệm.
Rỗng của bạn là bằng chứng về tham vọng của bạn là đầy; buồn của bạn là bằng chứng về mong mỏi vui của bạn. Nếu chửi gây đau cho bạn, nó là bằng chứng cho tính điên của bạn về vinh. Nếu bạn hiểu rõ điều này, bạn sẽ hiểu Lão Tử khi ông ấy nói đó là phẩm chất là rỗng cố hữu của thánh nhân.
Thế rồi Lão Tử tiếp tục nói rằng thánh nhân là khiêm tốn, như nước bùn. Nhún nhường, khiêm tốn có hai loại. Có một khiêm tốn mà chỉ là trang trí của bản ngã. Nếu chúng ta muốn biểu tượng hoá điều đó chúng ta có thể nói, “Thuần khiết như nước sông Hằng.” Thuần khiết có nghĩa của kiêu ngạo, và khiêm tốn cũng có nghĩa như vậy.
Người khiêm tốn như vậy tuyên bố tính khiêm tốn của mình ở mọi nơi. Người đó liên tục sụp xuống dưới chân của người khác và công bố bản thân mình là nhỏ hơn hạt bụi dưới chân họ. Nhưng nhìn vào mắt người đó, quan sát cách xử sự của người đó, và bạn sẽ thấy anh ta là cái đối lập của tuyên bố của anh ta về việc không là gì cả. Nếu bạn nói với anh ta về một người khiêm tốn hơn anh ta, anh ta sẽ cảm thấy bị tổn thương nhiều hơn người kiêu ngạo với ý nghĩ mình ở chỗ thứ hai. Vậy khiêm tốn có thể được xếp cấp bậc chứ? Nếu khiêm tốn có thể được xếp cấp bậc cao thấp, thế thì khiêm tốn ở đâu?
Bản ngã tìm các đỉnh. Do đó người có ý thức về bản ngã của mình, là không khiêm tốn; người đó là kẻ bản ngã. Khiêm tốn không thể được cảm thấy mà không cảm thấy kiêu căng bên trong. Do đó, người tuyên bố về khiêm tốn của mình là người bản ngã. Bằng không người đó sẽ không bao giờ có được cảm giác khiêm tốn. Không có cách nào cảm thấy khiêm tốn. Nhưng bản ngã có thể nguỵ trang là khiêm tốn. Nó làm vậy. Chúng ta khai tâm cho trẻ con vào việc đó.
Có lần tôi đã tới thăm một đại học. Phòng của ông phó hiệu trưởng có một bảng nhỏ viết: “Một mình khiêm tốn là đáng tôn kính.” Cái này chắc phải để làm lợi cho sinh viên. Nhưng nửa đầu của câu này là mâu thuẫn hoàn toàn với nửa sau. Những người khiêm tốn được tôn kính, cho nên người ham muốn được tôn kính phải phấn đấu để là khiêm tốn. Trong xã hội đầy bản ngã của chúng ta, người muốn được tôn kính phải rèn luyện khiêm tốn bằng không người đó sẽ không được tôn kính. Chúng ta tôn kính chỉ những người dường như đầy khiêm tốn. Điều không bao giờ xuất hiện cho chúng ta là sự khiêm tốn này được khoác lên để thu được việc thừa nhận và tôn vinh.
Những hành động khiêm tốn như vậy – chắp tay, hay cúi lạy – đã bao giờ tạo ra người khiêm tốn chưa? Nếu như vậy, chúng ta có các chính khách người bao giờ cũng chắp tay và cúi lạy, nhưng khiêm tốn của họ không là gì ngoài cuộc đua để làm hài lòng bản ngã sâu của họ. Có một kiểu khiêm tốn mà rất có ý thức tới thuần khiết và ưu tú của tính khiêm tốn.
Lão Tử nói tới loại khiêm tốn khác. Khiêm tốn này là tới mức nó thậm chí không nhận biết về tính tốt, sự thuần khiết, sự ưu tú của nó. Đó là lí do tại sao Lão Tử đã ví nó với nước bùn. Nước bùn chảy khắp nơi, bất kì chỗ nào đất tạo ra đường cho nó. Nó đầy bùn tới mức nó không ý thức về sự thuần khiết của nó, sự ưu tú của nó như là nước của sông Hằng.
Nếu thánh nhân ý thức tới sự kiện rằng ông ta là thánh nhân, ông ta không là thánh nhân đâu. Bạn đi tới một thánh nhân, chạm chân ông ấy và nói, “Thầy là thánh nhân vĩ đại.” Ông ấy sẽ đáp, “Không, không! Tôi chỉ như bụi dưới chân ông!” Cả hai đều biết qui tắc của trò chơi. Nếu như người đó mà nói rằng người đó là thánh nhân, bạn chắc đã thất vọng. Loại thánh nhân nào khoe khoang thế? Thánh nhân biết rằng nếu như ông ta mà chấp nhận lời nịnh của bạn, bạn chắc sẽ không tới ông ta lần nữa. Cho nên ông ta nói, “Không có tội nhân nào lớn hơn bản thân tôi. Điều này tôi biết, khi tôi nhìn vào bên trong bản thân tôi.” Cho nên bạn chạm chân ông ta và trở về được thoả mãn đầy đủ rằng bạn đã gặp một thánh nhân thực. Điều này không nhiều hơn trò chơi hai mặt.
Thánh nhân mà Lão Tử nói tới sẽ không bao giờ nói ông ấy là người rất tốt, ông ấy cũng sẽ không nói ông ấy là người rất xấu vì đây là hai tuyên bố của bản ngã. Thánh nhân theo Lão Tử không tuyên bố bất kì cái gì. Ông ấy không nói về bản thân ông ấy. Bạn có thể trở về từ ông ấy mà bị thất vọng, vì ông ấy không cho bạn cơ hội đưa ra bất kì quyết định nào liên quan tới ông ấy, và điều này để cho bạn không được thoả mãn. Giá mà ông ấy xác nhận tính thánh nhân của ông ấy, bạn có thể đã xác định ông ấy là ai; giá mà ông ấy phủ nhận tính thánh nhân của ông ấy, điều đó chắc đã cho bạn cơ hội để quyết định về ông ấy. Thánh nhân của Lão Tử không nói gì về bản thân ông ấy, Lão Tử nói, “Bất kì loại hiểu biết nào về cái ngã của người ta đều được mang tới bởi cái đối lập. Do đó, thánh nhân không có hiểu biết về bản thân mình.”
Một người tới và nói với Lão Tử, “Chúng tôi đã nghe nói rằng thầy là người trí huệ nhất thế giới; không ai bằng thầy về hiểu biết.” Lão Tử nghe trong im lặng về mọi điều người đó phải nói. “Thầy không nói cái gì đó sao?” người này hỏi. Lão Tử vẫn im lặng.
Thế rồi người khác tới và nói, “Chúng tôi rất bị rối bởi hiểu biết sai thầy đang gieo rắc. Bài nói của thầy sẽ làm rối tâm trí mọi người và đưa họ đi lạc lối.” Lão Tử vẫn kiên nhẫn nghe người đó, và giữ an bình của mình. “Thầy không nói cái gì để bảo vệ bản thân thầy sao?” người này hỏi.
Thế rồi Lão Tử nói, “Cả hai ông quyết định cho bản thân các ông đi. Một người trong các ông nghĩ ta là người trí huệ nhất và một người nghĩ ta đang bước vào trong dốt. Với bản thân ta, ta chẳng biết gì về ta là cái gì. Các ông là những người thông thái. Tự quyết định trong các ông đi. Nhưng, cầu nguyện là để ta bên ngoài việc đó.”
Nhân cách không tuyên bố, do dự là tính chất của thánh nhân.
Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.13 Từ thư thái tới bình đẳng để đạt tới giải thoát qua phương tiện vàng