Thánh nhân diễn theo hoàn cảnh

Một người tới Phật và hỏi một câu hỏi. Phật cho anh ta câu trả lời. Người khác tới và hỏi cùng câu hỏi. Phật cho anh ta lời đáp khác. Ananda, đệ tử của ông ấy, hỏi ông ấy, “Thầy không nghĩ thầy là bất nhất sao? Khoảnh khắc trước thầy đã cho một câu trả lời cho một người và khoảnh khắc sau thầy cho câu trả lời khác cho người khác; và vậy mà cả hai đã hỏi cùng câu hỏi.”

Phật đáp, “Câu hỏi họ hỏi là như nhau nhưng họ cả hai đã là hai cá nhân khác nhau. Vả lại, người thứ nhất hỏi ta vào buổi sáng và người thứ hai đưa ra câu hỏi cho ta vào buổi trưa. Bao nhiêu nước sông Hằng đã chảy đi từ sáng tới trưa? Ta không bị gắn vào điều ta đã nói buổi sáng. Giờ là trưa rồi, cho nên câu trả lời của ta sẽ là của buổi trưa. Khi trời tối, câu trả lời sẽ là của buổi tối.”

Nếu chúng ta đi tìm sự nhất quán trong lời của Phật chúng ta sẽ phải tìm sâu. Chỉ thế thì nhất quán xuất hiện. Trên bề mặt không có gì ngoài sự bất nhất. Chúng ta sẽ thấy phát biểu này mâu thuẫn với phát biểu khác. Chỉ người tầm thường là nhất quán. Nếu bạn thăm dò bên trong họ bạn sẽ thấy rằng quan điểm của họ vào lúc chết là hệt như quan điểm lúc họ được sinh ra. Nói cách khác, họ không bao giờ bỏ chiếc nôi. Người sống động là bất nhất theo cách thế tục nhưng người đó có nhất quán bản chất bên trong. Điều này là khó nhận ra ngoại trừ bởi những người đang đi tìm sự nhất quán bên trong.

Phật nói với người này, “Không có Thượng đế.” Với người khác ông ấy nói, “Có Thượng đế.” Khi người thứ ba hỏi, ông ấy lặng thinh. Bây giờ cả ba câu trả lời – không có Thượng đế; có Thượng đế; Thượng đế là cả hai và là không cả hai – có vẻ rất bất nhất, nhưng có nhất quán sâu bên trong. Khi Ananda khăng khăng xin lời giải thích, Phật nói, “Điều đã không được nói cho ông, ông không nên nghe. Nó không phải là câu hỏi của ông. Ông đã không hỏi nó. Cho nên tại sao ông đã nhận vào câu trả lời? Nếu bản thân ông nhận trách nhiệm cho cả ba câu trả lời ta cho người khác, ông sẽ thấy không thể ngủ được! Sao ông trăn trở và khó chịu về chúng vậy, khi ta, người cho các câu trả lời, lại ngủ thoải mái?”

Ananda nói, “Điều đó có thể là ổn với thầy, nhưng tôi không thể yên tâm được. Làm sao thầy có thể cho ba câu trả lời cho cùng câu hỏi? Buổi sáng thầy nói, ‘Không có Thượng đế’. Buổi trưa thầy nói, ‘Có Thượng đế.’ Đến tối, thầy không cho lời đáp nào! Làm sao điều này có thể vậy?”

Phật đáp, “Làm sao ta có thể bất nhất được? Người bất nhất là người có học thuyết đã quyết định. Ta giống như gương. Gương này nhận hình thể của người thứ nhất, người đã hỏi vào buổi sáng. Ta không có học thuyết nào của riêng ta. Ông có thể hỏi cùng câu hỏi với gương được không: rằng gương đã trưng ra một bộ mặt vào buổi sáng và bộ mặt khác hoàn toàn vào buổi tối?”

Phật nói thêm, “Người đã tới vào buổi sáng là người vô thần. Người đó tin rằng Thượng đế không hiện hữu. Người đó tới hỏi ta để cho người đó có thể trích dẫn ta như nhân chứng nếu ta nói, ‘Không có Thượng đế.’ Người đó là sai. Không tìm kiếm, người đó cho rằng không có Thượng đế. Ta phải lay người đó ra khỏi niềm tin của người đó cho nên ta nói một cách kiên quyết, ‘Có Thượng đế!’ Bây giờ người đó sẽ phải bắt đầu việc tìm kiếm mới của mình. Bây giờ ta sẽ theo dõi người đó bất kì chỗ nào người đó đi. Bất kì khi nào ý nghĩ tới với người đó rằng không có Thượng đế, hình thể của ta sẽ tới trước mắt người đó và người đó sẽ nhớ: người này đã nói rằng có Thượng đế.

“Người tới vào buổi trưa đã là người hữu thần, hệt như người trước là người vô thần. Người đó nữa đã không tìm, nhưng chỉ nghĩ rằng có Thượng đế. Người đó đầy dốt như người vô thần. Ta phải lay người đó ra khỏi dốt của anh ta nữa và làm cho anh ta bắt đầu việc tìm kiếm chân lí. Ta đã bảo anh ta, một cách kiên quyết, rằng không có Thượng đế. Bây giờ, khi người này đi tới đền, người này sẽ thấy mặt ta trước con mắt của tâm trí anh ta khi anh ta tôn thờ thần tượng. Anh ta nữa đã tới ta để hỏi ta để thêm trọng lượng cho niềm tin của anh ta và đi sâu hơn vào trong nghi lễ thờ phụng puja. Nhưng việc tôn thờ của anh ta là sai vì niềm tin của anh ta thiếu sự chân thực của trải nghiệm. Anh ta không biết gì.

“Người này tin, mà không biết, rằng không có Thượng đế. Người khác tin, mà không biết, rằng có Thượng đế. Cả hai người trong họ là như nhau. Điều này dường như mâu thuẫn với ông, Ananda, nhưng đó là lí do tại sao ta phải cho các câu trả lời mâu thuẫn. Có nhất quán nền tảng trong cả hai câu trả lời. Cả hai người phải bị lay động ra khỏi trạng thái dốt của họ.

“Người tới buổi tối không là người hữu thần không là người vô thần. Việc tìm kiếm của người đó đã không phải là tìm nhân chứng cho niềm tin của người đó. Tính tò mò của người đó là mộc mạc và hồn nhiên. Người đó đã hỏi, “Thượng đế có tồn tại không?” Người đó không có niềm tin của riêng mình. Nếu như ta mà trả lời người này hoặc dưới dạng khẳng định hay phủ định, có lẽ có hay không của ta chắc sẽ trở thành niềm tin của người đó. Người đó là hồn nhiên tới mức dùng lời chắc đã chứng tỏ là nguy hiểm. Do đó ta lặng thing. Im lặng của ta đã làm lay động người đó nữa, và người đó đã nhận được câu trả lời: nếu ông muốn biết liệu có Thượng đế hay không có, không hỏi; là im lặng.

“Những câu trả lời này dường như là bất nhất – được nhìn từ bề mặt. Sâu bên trong có sợi chỉ nhất quán mà là quá sâu, quá huyền không hiểu được; nó ở bên ngoài nắm giữ của lời đơn thuần.”

Những người như vậy là do dự. Họ không có qui tắc và học thuyết để làm theo. Họ không có mối ràng buộc mạnh. Thay vì thế, họ không có ràng buộc nào. Họ là tự do, dường như họ bao giờ cũng sẵn sàng để bay vào trong bầu trời. Họ bao giờ cũng tỉnh táo và có tính quan sát. Một người càng chắc chắn, người đó càng không nhạy cảm. Một người càng do dự, người đó càng tỉnh táo. Bạn muốn chắc chắn để cho bạn có thể ngủ một cách an bình. Bạn không ước ao là tỉnh táo cả hai mươi bốn giờ một ngày.

Mọi người tới tôi và nói, “Nói cho chúng tôi để chắc chắn rằng có Thượng đế.”

Tôi nói cho họ: “Dù tôi có thể nói nhiều bao nhiêu, khác biệt gì sẽ tạo ra cho bạn?”

Họ nói rằng thế thì họ sẽ yên tâm vì được đảm bảo và niềm tin của họ sẽ được làm mạnh hơn. Quyết định của họ rằng có Thượng đế sẽ được xác nhận bởi tôi. Tại sao họ làm điều này? Không phải là họ sính đi tìm Thượng đế. Điều đó chỉ để đoan chắc lần nữa cho bản thân họ về niềm tin của họ để cho họ không cần trải qua nhiệm vụ tìm kiếm gian nan; thế thì họ không cần phải tỉnh táo.

Có nguy hiểm cho cái ngã trên con đường tìm kiếm. Điều đó đòi hỏi lao động vất và và tất cả năng lượng của bạn. Bạn cần dũng cảm không kể xiết; bạn phải trả giá. Để cứu bản thân mình khỏi mọi lo lắng này, dễ hơn cả là đi tới người trí huệ và có được xác nhận của người đó. Cho nên họ nói: “Xin chỉ nói có thôi. Sao thầy ngần ngại? Cứ đảm bảo cho chúng tôi về sự tồn tại của Ngài để cho chúng tôi có thể thoát khỏi lo âu.”

Tại sao người ta muốn làm cho tâm trí mình được an tâm? Vì thế thì người đó có thể say sưa trong sự không nhạy cảm của mình; người đó không phải làm bất kì cái gì. Một người càng không quyết định, hành động của người đó càng tự phát, vì người đó càng tỉnh táo.

Bạn có thể đã không để ý tới sự kiện rằng khi một người lạ tới và ngồi bên cạnh bạn, bạn lập tức cảnh giác. Bạn bất chợt chú ý, bạn tỉnh táo! Thế rồi bạn bắt đầu cuộc đối thoại với người đó. Bạn hỏi tên, chỗ ở, việc làm của người đó. Và thế rồi, lưng bạn dựa vào ghế. Bạn bây giờ được thoả mãn và được đảm bảo rằng người đó chỉ “một trong chúng ta.” Không cần cảnh giác. Sự hăm hở để quen biết không phải bởi vì chúng ta sính biết mọi người. Chúng ta chỉ hăm hở đặt người lạ vào một trong những phân loại đa dạng chúng ta đã tạo ra – để tìm ra liệu người đó là người Sikh hay người Hồi giáo hay người Jaina – và được làm nhẹ khỏi lo âu của chúng ta. Tâm trí hỏi, ‘Người này là ai?’ Đây chỉ là thủ đoạn của tâm trí để giữ cho chúng ta không nhạy cảm. Tôn giáo của chúng ta, kinh sách của chúng ta, cái gọi là thánh nhân của chúng ta – tất cả chúng giúp chúng ta và làm yên tâm chúng ta để cho chúng ta có thể vẫn còn ngủ.

Lão Tử nói: “Họ là không quyết định, do dự và cực kì tỉnh táo.” Không cái gì về họ là được xác định trước, cho nên họ phải tuyệt đối tỉnh táo. Toàn thể vũ trụ là không biết, là người lạ. Không ai quen biết với người khác, mọi sự quen biết là giả, cho nên người ta phải tỉnh táo. Từng li một chúng ta bước đi, chúng ta bước trên con đường không biết. Mọi con đường đều chưa được vẽ bản đồ, như thuỷ thủ ở biển không có la bàn hướng dẫn mình. Anh ta phải tỉnh táo. Một người càng do dự, người đó sẽ càng tỉnh táo; một người càng quyết tâm, người đó càng an ninh và không nhạy cảm.

Ở đây lần nữa Lão Tử nói về những điều bên trong: sự do dự, tính tỉnh táo. Là tỉnh táo ngụ ý là cảnh giác, dường như bạn bị bao quanh bởi nguy hiểm từ mọi phía. Bạn đã bao giờ có cơ hội quan sát hươu trong rừng không? Hơi chút tiếng động, tiếng lá xào xạc và nó lập tức cảnh giác. Toàn thể con người nó trở nên đầy thức tỉnh, và nó nghe một cách nhiệt tình với mọi giác quan hướng vào hơi chút âm thanh nhỏ bé này. Quan sát một con thỏ: nó trở nên tỉnh táo làm sao với âm thanh mờ nhạt nhất. Hay con mèo trong nhà bạn, ngủ trên thảm chùi chân. Chút xíu tiếng động và nó nhảy vào chú ý. Toàn thể con người của nó lấy ngay cú nhảy từ ngủ vào thức tỉnh vì nguy hiểm có ở mọi nơi.

Người là con vật được bảo vệ nhất. Người đã làm ra những thu xếp cho an ninh của mình tới mức người đã đánh mất phẩm chất của tỉnh táo, điều tự nhiên thế với các con vật khác. Anh ta sống trong nhà mà anh ta có thể giữ an ninh bằng ổ khoá, anh ta có tiền mà anh ta có thể giữ an ninh trong ngân hàng, mọi thứ là an ninh. Ngay cả anh ta chết thì cũng không có lo nghĩ về người kế tục anh ta vì bảo hiểm nhân thọ của anh ta sẽ chăm lo cho họ. Anh ta không có lo âu và sợ hãi; mọi thứ được chăm nom. Mọi an ninh này phá huỷ ý thức tỉnh táo. Theo khía cạnh này, con vật là tốt hơn con người.

Lão Tử nói: thánh nhân tỉnh táo như thú hoang. Ông ấy không dự liệu về an ninh của mình. Ông ấy sống, sắc sảo với nguy hiểm bao quanh mình mọi khoảnh khắc. Và nguy hiểm bao giờ cũng có đó. Không thành vấn để chúng ta lấy bao nhiêu thận trọng, nguy hiểm vẫn còn. Chết hiện diện mọi khoảnh khắc, mọi nơi, và có thể giáng xuống chúng ta vào bất kì khoảnh khắc nào. Nhưng chúng ta cố lờ nó đi, né tránh sự kiện không tránh khỏi này.

Chúng ta tin rằng chết dành cho người khác, không cho chúng ta. Chúng ta thấy người khác chết, không phải bản thân chúng ta. Do đó có cảm giác rằng bao giờ cũng là ai đó chết. Nhưng những người chết đã ở dưới cùng ảo tưởng này. Chết ở khắp quanh chúng ta. Bất kì khoảnh khắc nào, vở kịch sự sống có thể đi tới kết thúc. Nếu một người chĩa dao vào bạn và nói, “Ông có một khoảnh khắc để sống. Nghĩ tới bất kì cái gì ông muốn nghĩ,” bạn sẽ nghĩ gì? Mọi suy nghĩ sẽ dừng lại, vì mọi hàng rào phòng thủ của bạn sẽ vỡ vụn trước mắt bạn. Một khoảnh khắc đó là tất cả bạn có, chết đang đứng trước bạn. Bạn trở nên tỉnh táo.

Phật bao giờ cũng phái các khất sĩ của ông ấy tới nơi hoả táng vì ông ấy thường nói rằng chừng nào và cho tới lúc một người chưa nhận ra sự gần gũi của chết, người đó không thể đi và trong thiền. Ông ấy ra lệnh cho họ đi và sống ở đó và nhìn các thân thể cháy và xương rải rác đó đây. Khi người đó dậy buổi sáng, người đó sẽ thấy thân thể cháy; vào buổi trưa lại cái xác khác cháy; và người đó sẽ rơi vào giấc ngủ khi thấy cái xác khác cháy. Bất kì chỗ nào người đó đi, người đó đều đương đầu với bằng chứng về chết; xương, tro, ngọn lửa. Người đó trải nghiệm chết ở khắp xung quanh mình.

Khi Mục Kiền Liên lần đầu tiên đi tới Phật, Phật trước hết bảo ông ấy đi và thiền ở nơi hoả táng. Mục Kiền Liên ngạc nhiên và nói, “Khi thầy đang ở cùng tôi, sao tôi phải đi chỗ nào đó khác? Tôi sẽ thiền ở đây cùng thầy. Đặc biệt gì với chỗ thiêu người?”

Phật nói, “Ông sẽ chưa có khả năng thiền đâu, vì ta cũng là việc bảo vệ cho ông. Ông bao giờ cũng cảm thấy, ‘Cái gì có đó mà sợ khi bản thân Phật đang ở cùng mình?’ Đi và xem chết đứng bên cạnh ông; cảm thấy sự hiện diện của nó gần ông và quanh ông từng khoảnh khắc. Ngày ông thấy chết bên cạnh ông, ông sẽ thấy cả ta nữa cũng cùng ông, và không trước điều này.” Mục Kiền Liên nói ông ấy sợ chỗ thiêu người, và cầu khẩn Phật đừng phái ông ấy đi. Khi chúng ta đi tới một thánh nhân, đó chỉ là tìm kiếm sự bảo hộ. Khi chúng ta đi tới đền hay nhà thờ hồi giáo hay giáo đường Do Thái, đó là vì cùng lí do. Chúng ta bao giờ cũng cố củng cố sự phòng thủ của chúng ta; chúng ta làm những kế hoạch dài hạn để chắc cho an toàn của chúng ta.

Mọi người tới tôi và nói, “Điều hồn là vĩnh hằng là tuyệt đối chắc chắn!” Họ đặt nhấn mạnh vào sự chắc chắn này, khi cảm thấy không chắc chắn bên trong bản thân họ. Họ bị hoảng sợ ngay cả khi nói điều này.

Một người đàn bà có lần tới tôi. Cô ấy đang làm nghiên cứu về tính bất tử của hồn, và sự sống sau chết. Tôi có chút phân vân khi tôi để ý rằng trong khi cô ấy nói về tính bất tử của hồn và sự sống sau chết, tay cô ấy run run. Tôi bảo cô ấy giơ tay lên để cho tôi có thể nhìn chúng. Cô ấy ngạc nhiên và hỏi lí do. Tôi đưa cho cô ấy một mẩu giấy và bảo cô ấy cầm nó trong tay khi cô ấy nói. Tôi cũng bảo cô ấy nhìn việc run của tay cô ấy. Cô ấy thú nhận rằng tay cô ấy đã run, chúng thậm chí còn toát vô khối mồ hôi, bất kì khi nào cô ấy thảo luận về chủ điểm này. Cô ấy cũng cảm thấy rất trăn trở lo lắng. Cũng vậy, cô ấy xác nhận một cách rất mạnh mẽ rằng hồn là bất tử: chính thân thể chết.

Tôi hỏi cô ấy làm sao cô ấy đã hứng khởi để tiến hành nghiên cứu này. Cô ấy có nghiên cứu về chủ đề này không, có thiền về nó, có trải nghiệm nó một chút nào không? Cô ấy nói, “Không. Nhưng mẹ tôi chết khi tôi còn là đứa trẻ. Bố tôi, và cái chết, trở thành gánh nặng lên tôi.” Thế rồi, liền một hơi, cô ấy tiếp tục. “Nhưng chết chỉ là của thân thể; hồn không bao giờ chết.”

Nỗi sợ của cô ấy là về chết, nhưng cô ấy bám lấy tính bất tử của hồn. Đây là biện pháp phòng thủ chống lại chết. Cô ấy muốn ai đó đảm bảo cho cô ấy. Thế là cô ấy đã đưa bản thân mình vào nghiên cứu này, không để chứng minh rằng hồn là bất tử vì chỉ nếu điều đó có thể được chứng minh, cô ấy có thể gạt bỏ được nỗi sợ chết, điều quấy rầy cô ấy.

Phật đã nói với Mục Kiền Liên, “Đầu tiên trải nghiệm chết đi. Chỉ thế ông sẽ phát triển phẩm chất tỉnh giác. Và khi ông tỉnh giác, thế thì một mình ông có thể đi vào trong thiền, không bao giờ khác hơn.”

Thiền ngụ ý tỉnh táo, tươi tắn, tỉnh thức thường xuyên, không một khoảnh khắc nào là không nhạy cảm – như một người bị bao quanh bởi nguy hiểm từ mọi phía. Những thánh nhân này là do dự khi tỉnh táo.

Nghiêm kính dường như khách lạ,….” Khi một khách mà bạn đã không biết chút nào tới nhà bạn, người đó phải tỏ ra có hành vi tốt nhất. Ngay cả bạn, người chủ, cũng biểu hiện ra hành vi tốt nhất của bạn. Bạn sẽ cho người đó phòng ngủ tốt nhất trong nhà bạn, làm các thu xếp ăn uống cho người đó và chăm sóc cho các yêu cầu nhỏ nhất của người đó. Khi ngày trôi qua, vị khách trở nên quen thuộc và dần dần lòng hiếu khách của bạn giảm đi. Khi vị khách trở nên quá quen thuộc, bạn thậm chí sử dụng cách thức và phương tiện để tống khứ người đó đi.

Có diễn kịch khi hai người lạ gặp gỡ. Và khi họ gặp gỡ, đó không phải là các cái ngã thực của họ gặp gỡ mà là các mặt nạ mà từng người đã đeo lên. Sau một thời gian ngắn, khi họ trở nên quen thuộc với nhau, mặt nạ giả rơi ra và mặt thực được thấy. Thế thì họ cảm thấy bị lừa. Không ai đã lừa bạn. Khi có cảm giác không quen thuộc, mọi người đeo lên vẻ nghiêm nghị phía trước trong thái độ đối xử với nhau để cho chỉ cái đó là thấy được, cái là có kỉ luật, lịch sự và có trật tự. Thế rồi, khi quen thuộc phát triển, mọi kiểm soát mất đi. Khi hai người trở thành những người bạn lớn, điều đó chỉ có nghĩa là họ có thể tự do lạm dụng nhau và không coi điều đó là không thích hợp. Mọi phép tắc mất đi.

Lão Tử nói: “Họ sống qua các kiếp sống của họ dường như họ là khách.” Các thánh nhân không bao giờ thừa nhận thế giới này là thế giới riêng của họ. Họ không bao giờ là như ở nhà trong nó. Suốt các kiếp sống của mình, họ vẫn còn là người ngoài, khách thăm. Colin Wilson đã viết một cuốn sách tuyệt vời có tên Người ngoài. Ông ấy đã dồn nhiều tâm trí vào cuốn sách này để chỉ ra rằng tất cả những người đã làm chủ trong thể giới này, dù đó là Socrates hay Phật hay Lão Tử, tất cả đều là người ngoài. Họ sống trong thế giới như vị khách sẽ ở lại nhà của những người mà người đó đã không biết. Cảm giác này về việc là khách vẫn còn với họ, vì cảm giác về cái không biết không bao giờ rời bỏ họ.

Chính một sự kiện thú vị là chúng ta càng biết ít về bản thân chúng ta, chúng ta càng cảm thấy chúng ta biết nhiều về người khác. Khi chúng ta bắt đầu quen thuộc với cái ngã riêng của chúng ta, chúng ta dừng biết người khác. Nhìn vào điều đó theo cách này. Một người nói, “Tôi biết nhiều người thế”, người đó luôn luôn là người không biết bản thân mình. Người đã biết bản thân mình lập tức biết rằng người đó chẳng biết ai. Người như vậy sống, suốt cuộc đời, như người lạ, như khách.

Lão Tử nói, “Cuộc sống của họ là việc diễn sâu. Họ hiện hữu nhưng là khách trong thế giới này, cho nên hạnh kiểm của họ chỉ là giả vờ, không thực.” Chúng ta hãy cố hiểu điều này bằng một ví dụ.

Sau hai mươi năm dài, Phật trở về nhà. Anh ông ấy, Ananda, đã nhận lời từ ông ấy rằng ông ta bao giờ cũng ở cùng chỗ Phật ở. Phật đã cho lời hứa này. Ở biên giới vương quốc vua cha ông ấy, mọi người đã tụ tập để đón chào ông ấy. Duy nhất Yashodhara, vợ ông ấy, đã không ở trong đám đông. Phật nói với Ananda. “Ông thấy đấy, Ananda, Yashodhara đã không tới.” Ananda lo nghĩ: sau khi đạt tới Phật tính, Phật vẫn quan tâm tới vợ ông ấy! Đã mười hai năm từ khi ông ấy đạt tới hiểu biết tối cao, và vậy mà vợ ông ấy vẫn còn trong tâm tưởng của ông ấy! Ông ta nén kiên nhẫn, và quyết định hỏi Phật vào khoảnh khắc đúng.

Phật về tới cung điện. Không có dấu hiệu nào của Yoshodhara. Ông ấy đi vào bên trong. Vẫn không có dấu hiệu nào của cô ấy. Thế rồi Phật nói với Ananda, “Ta đã hứa để ông đi cùng ta bất kì chỗ nào ta đi. Ta không muốn nuốt lời hứa, nhưng ta phải làm một yêu cầu hôm nay. Ta đã rời khỏi Yashodhara và chạy đi, vì đã không có cách nào khác. Nếu sau một thời kì phân cách dài, ta đi tới gặp cô ấy với đám đông quanh ta, cô ấy sẽ không hài lòng. Để ta cho cô ấy một cơ hội giải toả giận mà cô ấy đã chứa chấp suốt những năm dài này. Xin ông cho phép ta ở cùng cô ấy một mình.”

Ananda kinh hãi bởi yêu cầu của ông ấy. Nhu cầu bây giờ cho Phật gặp vợ ông ấy một mình ở đâu? Nhưng Phật là đúng. Việc gặp Yashodhara ở chỗ riêng tư là có kết quả. Yashodhara trút mọi giận của cô ấy lên ông ấy. Cô ấy buộc tội ông ấy đã bỏ trốn cô ấy, đã không có gì mấy để nói cho cô ấy trước khi bỏ đi. Phật đứng bình thản và chân thành và nghe cô ấy một cách kiên nhẫn. Khi giận của cô ấy đã nguôi, cô ấy bột phát trong nước mắt; và trong dòng nước mắt đó, cô ấy đã xả ra đau và khổ mà cô ấy đã trải qua. Thế rồi nước mắt ngừng chảy. Cô ấy nhìn lên bộ mặt thanh thản. “Anh tới một mình gặp em,” cô ấy nói, “và điều đó đã làm thay đổi em hoàn toàn. Nếu mà anh tới với đám đông, em chắc đã biết rằng không có chỗ cho em trong tim anh.”

Phật vẫn ngồi yên lặng và thanh thản. Yashodhara sụp xuống chân ông ấy. Mọi phàn nàn đã tan biến; mọi đau đã bay đi. Cô ấy hỏi xin tha thứ. Phật nói với cô ấy, “Chỉ có một ham muốn trong anh: rằng em chấp nhận điều anh đã mang cùng với anh.” Đây đã toàn là đóng kịch về phần Phật, nhưng nó đã mang tới việc khai tâm cho vợ ông ấy. Cô ấy đã trở thành một nữ khất sĩ.

Sau bẩy năm, cô ấy đi vào trong thiền sâu. Thế rồi một hôm cô ấy nói với ông ấy: “Một hành động tế nhị anh đã thể hiện hôm đó! Niềm vui của em không biết tới ranh giới khi em nghe nói rằng anh đã tìm em khi anh vào vương quốc. Nỗi khổ đơn độc lâu dài đã rời khỏi em chính khoảnh khắc đó. Thế rồi em đã hạnh phúc làm sao khi anh bỏ Ananda lại sau và đã tới gặp em! Mọi phàn nàn của em, mọi giận của em với anh, đã tan chảy hết. Nhưng bây giờ em biết đó chỉ là hành động anh diễn và chính điều này đã mang tới thay đổi trong em.”

Lão Tử nói: “Người như vậy không bao giờ có thể trở thành một phần cố hữu của thế giới này, nhưng họ bao giờ cũng diễn dường như họ đã là vậy.” Những người như vậy không thiết lập quan hệ nào, nhưng bao giờ cũng giả vờ là quan hệ sâu sắc. Việc diễn này về phần họ là rất nghiêm chỉnh và ấn tượng. Nếu nó mà không như vậy, nó không thể kéo dài được.

 

Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.12 Dấu hiệu thánh nhân: người tỉnh táo và do dự, vô ngã và vui đùa

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Notice: ob_end_flush(): failed to send buffer of zlib output compression (0) in /home/nhoshn0t/public_html/wp-includes/functions.php on line 5471