Đây là lời kinh hiếm hoi. Nó là lời kinh bất thường vì nó là đối lập toàn bộ với quan niệm của chúng ta về thánh nhân. Lão Tử không nhìn thánh nhân như chúng ta nhìn. Thánh nhân của Lão Tử là cá nhân được toàn vẹn hơn, đầy đủ hơn. Người mà chúng ta coi là thánh nhân là một cá nhân bất toàn. Chắc tốt hơn thì nên gọi ông ấy là thiện nhân thay vì thánh nhân. Chúng ta có thể hiểu thiện nhân và ác nhân. Người làm điều thiện là thiện nhân; người làm điều ác là ác nhân. Chúng ta qui mọi thứ là tốt cho thiện nhân và mọi thứ là xấu cho ác nhân. Nhưng Lão Tử nói về thánh nhân như một người toàn vẹn. Người đó không là cái gì đó đối lập với ác nhân, và người đó không chỉ là thiện nhân. Người đó là cả hai, và bên ngoài cả hai. Người đó là cả thiện và ác đồng thời, và do đó người đó có năng lực ở bên ngoài cả hai.
Chúng ta sẽ phải hiểu vài điều trước khi cố hiểu kinh này. Thế thì chúng ta sẽ có khả năng đi vào trong tim của kinh này.
Lão Tử nói cho chúng ta một sự kiện có ý nghĩa: “Bậc toàn thiện xưa, tinh tế nhiệm mầu, siêu huyền, thông suốt. Sâu chẳng khá dò.”
Trước hết và trên hết, khoa học liên tục khám phá ra chân lí mới. Do đó, có các nhà tư tưởng nguyên thuỷ trong thế giới khoa học, người khám phá ra những điều mới. Trong thế giới tôn giáo, các quan niệm nguyên thuỷ không có nghĩa, và không có khám phá mới. Trong thế giới tôn giáo, chân lí không cũ không mới. Nó là vĩnh hằng. Cùng chân lí này được khám phá đi khám phá lại. Với một cá nhân nó có thể là mới vì người đó lần đầu tiên biết nó, nhưng nó không mới. Chân lí bao giờ cũng hiện hữu. Các khám phá của khoa học là mới hôm nay và cũ ngày mai; nhưng chân lí của tôn giáo không mới mà chúng cũng không trở nên cũ, vì cái không bao giờ mới, không bao giờ có thể là cũ. Tôn giáo là việc tìm kiếm cá nhân về chân lí, cái bao giờ cũng hiện hữu. Do đó, dù đó là Krishna hay Christ, Lão Tử hay Mahavira, tất cả họ đều nói về những rishi, người cũng đã đạt tới chân lí này trước họ.
Điều này đáng lưu ý. Khi nhà khoa học nói về khám phá của mình, ông ấy sẽ nói rằng không ai trước ông ấy đã khám phá ra sự kiện này. Nếu ai đó khác đã khám phá ra nó trước đây, việc tìm kiếm của ông ấy là vô tích sự. Nếu ai đó khác đã khám phá ra luật hấp dẫn trước Newton, khám phá của ông ấy chắc đã không có nghĩa. Điều này là không tránh khỏi trong khoa học. Do đó, từng nhà khoa học phải chứng minh tính nguyên gốc của khám phá của mình. Trong tôn giáo, đó chỉ là cách đi vòng khác. Ở đây, nếu nhà tư tưởng cố gắng chứng minh tính nguyên gốc của mình, người đó sẽ bị coi là sai, vì chân lí của tôn giáo không được vay mượn, không cũ rích. Chúng không là chân lí chết cũng không là chân lí giả. Bất kì khi nào một người khám phá ra chúng, chúng là mới và tươi tắn. Điều này không có nghĩa là chúng đã không được biết từ trước. Hàng nghìn người đã biết nó trước đây. Chân lí bao giờ cũng là một.
Chân lí của khoa học là đúng hôm nay và không đúng ngày mai. Đó là cách chúng có thể là mới. Chúng ta có thể hiểu điều đó theo cách này: rằng chỉ phi chân lí có thể là mới; chân lí không thể là mới. Bạn có thể khám phá ra phi chân lí mới mà không giống người khác, vì phi chân lí có thể là chân lí rất riêng của bạn. Từng người có thể có phi chân lí riêng của mình, nhưng từng người không thể có chân lí riêng của mình. Chân lí chỉ là một. Và bất kì chỗ nào một người mở tim mình ra, người đó sẽ khám phá ra chân lí này.
Trong khoa học, người dường như là mở cánh cửa tới thực tại (chân lí); nhưng trong tôn giáo, người mở tim riêng của mình tới thực tại (chân lí). Cái nằm ẩn trong chiều sâu của tim là một. Do đó Krishna nói, “Từ lâu trước ta, các rishi đã nói cùng điều này.” Mahavira cũng nói thế: “Trước ta, các tirthankaras đã biết điều đó.” Christ cũng nói, và Mohammed cũng nói, rằng các nhà tiên trí trước họ cũng đã biết. Không ai trong số họ tuyên bố bản thân mình là người tiên phong, người khám phá nguyên thuỷ.
Lão Tử cũng nói: “Bậc toàn thiện xưa, tinh tế nhiệm mầu, siêu huyền, thông suốt.” Nhưng ông ấy cũng không nhắc tới tên của họ. Điều này lần nữa lại đáng để ý. Lão Tử tin rằng lịch sử không có năng lực nhớ những người đã xuyên thấu vào trong huyền sâu của Đạo, vì lịch sử chỉ ghi chép về những người nó có thể hiểu. Đã có nhiều người trên thế giới này mà đã biết tới huyền tối cao, nhưng hiểu biết này là sâu lắng và sâu sắc tới mức khi họ sống nó và nói nó, mọi người đã không thể hiểu được. Do đó, những người nhìn xa trông rộng vĩ đại này về chân lí đã bị quên đi. Chúng ta còn lời của nhiều người trong họ, nhưng cái tên bị mất. Vẫn còn có những người khác mà chúng ta có tên họ nhưng lời lại mất. Vẫn còn có những người khác mà cả lời lẫn tên của họ đã bị thất lạc. Lão Tử nói về những thánh nhân đó, người không được nhắc tới chút nào trong lịch sử; vì họ là sâu tới mức họ ở bên ngoài việc hiểu của người thường.
Việc hiểu của người bao phủ một vòng tròn rất nhỏ và điều người đó có thể hiểu là rất thô. Người càng vĩ đại, càng khó hiểu người đó hơn. Điều đó cũng giống như trong ánh sáng rất chói, mắt nhắm lại. Khi chúng ta cố nhìn vào mặt trời, mắt nhắm lại. Theo đích xác cùng cách thức đó, việc hiểu của chúng ta đóng lại trước những người đã trải nghiệm chân lí tối cao; chúng ta không thể hiểu được họ. Lí do là gì?
Đề cập tới điều này, chúng ta phải hiểu khác biệt giữa khoa học và tôn giáo. Để hiểu khoa học, chúng ta không phải làm tăng việc hiểu của chúng ta. Chúng ta đơn giản phải thêm nhiều thông tin nào đó. Nếu tôi có thể đếm tới mười, tôi không phải làm tăng khả năng hiểu của tôi để học đếm tới hai mươi. Tôi chỉ phải trở nên quen thuộc với các con số cho tới hai mươi. Việc hiểu của tôi vẫn còn như cũ. Tôi có thể đếm tới 1000. Tôi chỉ phải học để cạnh nhau các chữ số. Đống thông tin của tôi sẽ tăng lên, nhưng việc hiểu của tôi vẫn còn như cũ. Các nhà khoa học nói rằng việc hiểu của đứa trẻ không tăng lên sau tuổi mười tám. Việc hiểu dừng phát triển sau mười tám, nhưng đống thông tin thì cứ tăng lên. Điều này không có nghĩa là không có khác biệt giữa một cậu con trai mười tám tuổi và người già. Nhưng khác biệt chỉ trong việc tích luỹ tri thức, và không trong việc hiểu. Người già có đống thông tin lớn hơn, trong khi cậu thanh niên có ít hơn.
Các nhà khoa học nói việc hiểu dừng phát triển sớm hơn nhiều trong hầu hết các trường hợp. Trong thế chiến cuối cùng, khi I.Q. của các lính được tuyển mộ vào lực lượng phòng thủ được tính đến ở Mĩ, kết quả gây choáng đã là I.Q trung bình là I.Q của đứa trẻ mười ba tuổi rưỡi. Điều này nghĩa là I.Q của đứa trẻ mười ba tuổi rưỡi và người già tám mươi tuổi có thể là cùng một.
Trong khoa học, chúng ta đã làm tăng lên chỉ đống tri thức. Do đó giáo dục của chúng ta phụ thuộc ít vào việc hiểu và nhiều vào việc tích luỹ thông tin. Giáo dục của chúng ta, thay vì phát triển việc hiểu của chúng ta, lại phát triển năng lực ghi nhớ. Cho nên đó là chuyện mọi kì thi đều dựa trên việc ghi nhớ và không dựa trên trí tuệ.
Nhưng trong tôn giáo, chính lại là cách đi vòng khác. Tôn giáo không bao giờ được hiểu là ghi nhớ. Việc hiểu phải được phát triển. Việc hiểu càng mạnh, càng dễ dàng hơn cho hiểu tôn giáo.
Tôi đã nói rằng tuổi trung bình của thông minh là mười ba tuổi rưỡi. Có một câu chuyện hay về Lão Tử, rằng ông ấy được sinh ra đã già. Điều này rất biểu tượng, vì từ thời thơ ấu Lão Tử đã có I.Q của ông già một trăm tuổi với việc hiểu đã phát triển cùng với tuổi của ông ấy.
Đống thông tin, và việc hiểu, là khác biệt giữa tri thức và trí huệ. Tri thức có thể tăng lên cho dù không phát triển trí huệ, nhưng trí huệ là không thể có nếu không phát triển việc hiểu. Tôn giáo nói về cõi khác toàn bộ mà chỉ tới bên trong việc hiểu của chúng ta khi trí tuệ của chúng ta trải qua biến đổi toàn bộ.
Lão Tử nói: “ Bậc toàn thiện xưa, tinh tế nhiệm mầu, siêu huyền, thông suốt, sâu chẳng khá dò.” Ngay cả ngày nay, tôn giáo ở bên ngoài tri thức của người. Có lẽ tôn giáo bao giờ cũng sẽ ở bên ngoài việc hiểu của người, vì việc hiểu của người là phù hợp chỉ để hiểu các vật thể nhưng không đủ năng lực để hiểu các kinh nghiệm. Nó là phù hợp để hiểu người khác, nhưng không có năng lực giúp chúng ta hiểu bản thân chúng ta.
Rất dễ cho chúng ta hiểu người khác, nhưng rất khó để hiểu cái ngã riêng của chúng ta. Chúng ta không có am hiểu để hiểu bản thân chúng ta. Điều đó giống thế này. Nếu thị lực của tôi bị yếu và tôi chỉ thấy các vật ở một khoảng cách và không thấy ở các chỗ gần, điều đó có nghĩa rằng tầm nhìn của tôi đã bất động ở khoảng cách xa. Nếu tôi muốn thấy các vật ở gần với tôi hơn, tôi sẽ phải dùng kính. Cho nên các vật ở miền xa là dễ cho tôi thấy hơn các vật ở miền gần. Theo gần như cùng cách thức này, việc hiểu của người bị cố định vào phạm vi xa, cho nên điều dễ hơn với chúng ta là nhìn người khác, là hiểu người khác. Một vật càng xa khỏi chúng ta, chúng ta càng khôn hơn về nó, nó càng tới gần, việc hiểu của chúng ta về nó càng kém hơn. Và khi nó tới chính cái ngã của chúng ta, chúng ta tuyệt đối dốt.
Đây là lí do tại sao chúng ta thấy chúng ta láu lỉnh thể trong việc khuyên bảo người khác, nhưng không như vậy với cái ngã riêng của chúng ta. Khi chúng ta thấy một người khuyên người khác, người đó dường như rất khôn, nhưng người đó làm gì khi cùng tình huống xuất hiện cho người đó là rất ngốc. Lí do gì mà chúng ta có thể khuyên người khác? Người khác ở cách một khoảnh cách. Việc hiểu của chúng ta bị hội tụ vào một khoảng cách, và chúng ta có thể thấy mọi thứ rõ ràng. Khi việc hiểu của chúng ta kéo càng gần hơn tới chúng ta, mắt chúng ta trở nên không được hội tụ. Khi mắt chúng ta cố nhìn mọi thứ mỗi lúc một rõ hơn cho cái ngã riêng của chúng ta, khi chúng ta chung cuộc nhìn vào trung tâm của chúng ta, mọi thứ trở nên tối. Một loại hiểu khác được cần tới, việc hiểu mà có thể hội tụ vào cái ngã.
Tôn giáo ngụ ý sức mạnh để trở nên được định tâm vào cái ngã riêng của chúng ta: việc hiểu sâu lắng, định tâm vào cái ngã, điều cho năng lực nhìn vào cái ngã riêng của người ta như chúng ta nhìn vào người khác, như chúng ta khuyên người khác. Năng lực đi ra ngoài bản thân người ta, đứng tách rời khỏi bản thân người, không bị chạm và không bị ảnh hưởng bởi bản thân người ta, cho chúng ta sức mạnh và năng lực đi vào các huyền sâu của tôn giáo.
Chúng ta là những người rất khôn, đặc biệt nơi các thứ vô dụng có liên quan. Một thứ càng vô dụng, việc hiểu của chúng ta càng lớn. Một thứ càng có chủ định, trí tuệ của chúng ta càng trở nên câm nín hơn. Chúng ta là nghệ nhân chính trong việc thấy rõ mọi rác trong cuộc sống nhưng khi bị đối diện với kim cương, chúng ta thành mù!
Lão Tử nói: “Nhiều người đã đi vào thế giới tôn giáo, nhưng họ đã ở bên ngoài việc hiểu của người thường.” Tại sao? Ông ấy cũng cho lí do.
Đã có nhiều hiểu lầm liên quan tới những người này, vì họ đã ở bên ngoài thông minh bình thường. Chúng ta sẽ nhận ra hiểu lầm của chúng ta là sâu sắc thế nào khi Lão Tử giải thích các thuộc tính của người như vậy. Và bởi vì họ ở bên ngoài việc hiểu của chúng ta, các thuộc tính của họ không thể được định nghĩa rõ ràng. Chúng ta chỉ làm nỗ lực để hiểu hành vi của họ. Tại sao?
Chúng ta có ngôn ngữ mà có năng lực lĩnh hội sự sống khi chúng ta sống nó, nhưng chúng ta không có ngôn ngữ để lĩnh hội sự sống mà chúng chưa bao giờ sống. Nếu một thứ vô dụng phải được giải thích, chúng ta có những từ khéo léo để diễn đạt nó. Bạn có nhận ra rằng khi bạn giận bạn trở thành lắm mồm thế, nhưng khi cần đi tới diễn đạt yêu; bạn ngắc ngứ với lời? Bạn gần như không thể tìm ra lời khi đi tới lời cầu nguyện! Chúng ta có ngôn ngữ cho giận nhưng không có ngôn ngữ cho yêu. Ngôn ngữ của yêu chỉ có thể phát triển nếu chúng ta có việc hiểu gần hơn về bản thân chúng ta. Ngôn ngữ của giận là dễ vì nó liên quan tới người khác, những người tách rời và xa khỏi chúng ta.
Chúng ta không thể diễn đạt yêu của chúng ta bằng một nửa lượng chúng ta có thể diễn đạt giận của chúng ta. Người yêu bao giờ cũng bị mất đi với lời. Người đó phải nói gì, làm sao người đó nói điều đó? Nhưng cùng người yêu đó sẽ không thấy bản thân mình thiếu lời khi người đó đầy giận hay ghét. Người đó sẽ có đủ để nói, và còn hơn nữa. Chúng ta không có ngôn ngữ để diễn đạt cái ở gần chúng ta nhất.
Do đó, Lão Tử nói, chúng ta chỉ có thể cố gắng nói cái gì đó về những người này. Khó mà chính xác được về họ; chúng ta chỉ có thể phỏng đoán. Và thế nữa, điều đó sẽ chỉ là suy đoán yếu ớt, cái được suy ra sau khi dò dẫm trong tối. Và nhớ, không suy đoán nào, không dự đoán nào là đủ mạnh để làm theo. Thế giới bên trong là nhạy cảm, tinh tế, tinh vi tới mức nếu cái nắm của bạn chỉ hơi chút chặt, nó sẽ bị mất. Để hiểu thấu huyền, bàn tay bạn phải mở. Đừng cố siết chặt việc nắm của bạn.
“Thận trọng dường như qua sông trên nước đặc.” Lão Tử cố vẽ ra bức tranh thuỷ mạc. Và một cách cố ý thế, để cho trí tuệ của chúng ta có thể nảy sinh và đi vào cái mù mịt của huyền đó. Lão Tử không cho những lời chính xác; ông ấy chỉ cho các gợi ý. Ông ấy nói, “Họ tỉnh táo như người sẽ đi qua dòng nước đóng băng một sáng mùa đông lạnh, khi nước dường như làm đông máu khi người ta bước vào trong nó.”
Chúng ta hãy nghiền ngẫm về điều này. Chính ý nghĩ đi qua dòng nước băng sẽ làm cho lông tóc thân thể bạn dựng đứng lên. Bạn sẽ chăm chú vào từng bước đi, vì sợ rằng bạn ngã vào trong dòng nước. Bạn sẽ quên mọi thứ: quá khứ, tương lai. Từng bước trong hiện tại sẽ chỉ một mình nó là có ý nghĩa. Hay nói bạn đang đi qua một núi hẹp nơi một bước sai sẽ làm cho bạn ngã nhào vào trong vực thẳm đang há mồm bên dưới. Vào thời điểm như vậy liệu bạn có nhớ tới quá khứ của bạn hay nghĩ tới tương lai không? Không thể được, vì một sao lãng nhỏ nhất chắc sẽ làm cho bạn mất mạng. Bạn chắc sẽ tỉnh táo và tỉnh thức, có lẽ lần đầu tiên trong đời bạn. Từng bước bạn đi sẽ được lấy với ý thức đầy đủ, với sự chú ý nhất điểm trụ.
Các thiền sư của Nhật Bản, những người đã bị ảnh hưởng lớn bởi Lão Tử, đã ứng biến nhiều phương pháp để dạy tỉnh giác, tỉnh táo. Một trong những phương pháp này là phương pháp dùng kiếm. Người ta không thể tưởng tượng được việc dùng kiếm trong thiền, nhưng lời kinh này của Lão Tử là lí do đằng sau nó. Thiền sư Nhật Bản biết rằng nếu bạn bảo một người ngồi và là tĩnh lặng, người đó không thể như vậy được; người đó thậm chí trở nên trăn trở hơn người đó thường vậy. Những người đã cố làm tĩnh lặng tâm trí trở nên nghĩ nhiều hơn bao giờ. Nghĩ nhiều bắt đầu chạy nhanh hơn. Mọi điều bạn thường không nghĩ tới lại đổ xô tới tâm trí. Mọi loại ý nghĩ xâm chiếm tâm trí và có hỗn độn và lẫn lộn hoàn toàn bên trong. Cố thử ngồi tĩnh lặng trong nửa giờ xem. Nửa giờ đó sẽ giống như điên đang nhảy múa bên trong. Mọi người có thể nghĩ bạn bị cuốn hút trong thiền, nhưng bạn sẽ biết rằng bạn đã nổi điên bên trong. Lí do là gì?
Lão Tử nói: “Nhận biết toàn bộ chỉ có thể có đó trong đối diện với nguy hiểm.” Trong cuộc sống có nguy hiểm mọi khoảnh khắc, chỉ chúng ta không biết nó thôi. Do đó, chúng ta cố gắng quên lãng, vô ý thức về nguy hiểm này. Dường như người bị bịt mắt và anh ta không biết anh ta đang bước đi trên mép vách đá. Một bước sai và sự sống sẽ đi tới kết thúc. Người như vậy chắc sẽ bị lạc trong ý nghĩ ngay cả khi người đó bước trên vách đá. Bỏ khăn bịt ra khỏi mắt người đó và ý nghĩ của người đó sẽ dừng lại ngay và người đó sẽ trở nên nhận biết về nguy hiểm đang đối diện người đó.
Cho nên Thiền sư nói, “Cầm kiếm, và cần nó sao cho chỉ kiếm còn lại. Nguy hiểm phải trở thành khủng khiếp tới mức tâm trí không có cơ hội nào đi lùi hay đi tiến. Nó phải dừng chính khoảnh khắc đó.” Đó là lí do tại sao chúng ta thấy hình tượng trưng cho kiếm trước đền thiền. Nơi kiếm thuật được dạy – chỗ như vậy được gọi là lớp thiền.
Lão Tử nói: “Người như vậy đã trở nên tỉnh táo. Đây là đặc trưng thứ nhất của họ.”
Nếu chúng ta được yêu cầu định nghĩa thánh nhân, chúng ta sẽ nói rằng thánh nhân là người không uống rượu, người không ăn thịt, người không ăn ban đêm, người sống trong lều, người đi trần trụi…. Chúng ta sẽ định nghĩa ông ấy dưới dạng không có gì để làm với tính thánh nhân. Nhưng Lão Tử đặt nhấn mạnh vào nhận biết. Đây là nguyên lí nền tảng của mọi thứ được nhắc tới trong định nghĩa chung của chúng ta về thánh nhân, nhưng định nghĩa của chúng ta không bao gồm bản thân nhận biết.
Một người có thể là người không ăn chay trong trạng thái vô ý thức của mình. Người đó có thể là người ăn chay trong trạng thái vô ý thức của mình. Đứa trẻ được sinh ra trong gia đình ăn chay là người ăn chay; đứa khác được sinh ra trong gia đình không ăn chay và vẫn còn là người không ăn chay. Cả hai là tương đương trong trạng thái vô ý thức. Nếu hai đứa trẻ này được tráo đổi trong thời thơ ấu, chúng sẽ dễ dàng lấy lại các thói quen của môi trường của chúng, và không cảm thấy khó khăn gì trong việc làm như vậy. Một người uống máu dễ dàng như người khác uống sữa. Vô ý thức trong cả hai trường hợp là tương đương. Nếu người ăn thịt nghĩ người đó đang làm việc đó trong nhận biết đầy đủ, người đó lầm; nếu người uống sữa nghĩ người đó đang làm như vậy trong nhận biết đầy đủ, người đó cũng lầm.
Toàn thể hình mẫu cuộc sống của chúng ta là không nhạy cảm. Bất kì cái gì chúng ta làm đều được làm trong trạng thái không nhạy cảm. Trong sự không nhạy cảm này chúng ta có thể bị giám hộ theo cách rất có thẩm quyền để làm bất kì cái gì. Nếu thịt được đặt trước người ăn chay, người đó sẽ bị buồn nôn khi nhìn thấy nó. Điều này không phải bởi vì bất kì phẩm chất tâm linh nào, nhưng chỉ bởi vì ảnh hưởng từ trước. Người đó đơn giản không được huấn luyện để ăn thịt. Theo cách tương tự, một số người bị nôn khi nhìn thấy sữa. Cả hai đều ở trong trạng thái vô ý thức tương đương.
Bạn sẽ không bao giờ cảm thấy buồn nôn khi nhìn thấy sữa; bạn sẽ nói nó là đồ uống hoàn hảo. Nhưng có những giáo phái tin rằng sữa là một phần của máu. Và nó là vậy. Đó là lí do tại sau máu tăng lên khi uống sữa vào. Máu bao gồm bạch cầu và hồng cầu. Bạch cầu tụ tập với nhau và tạo thành sữa. Do đó sữa là thức ăn đầy đủ, vì thân thể có được máu qua việc nhận sữa vào. Những người được dạy coi sữa như một phần của máu bị khó chịu khi nhìn thấy sữa.
Có những người khác tuyên bố rằng trứng là thứ chay. Họ biện minh rằng chừng nào sự sống còn chưa trở nên biểu lộ, trứng có thể được ăn như rau. Những người như vậy, người coi bản thân họ là người ăn chay, không khó chịu khi nhìn vào trứng. Mọi điều này không phụ thuộc vào nhận biết của bạn. Thay vì thế, nó phụ thuộc vào giáo dục của bạn, cách bạn được nuôi dưỡng lớn lên.
Từ “Con đường Đạo”, T.4, Ch.12 Dấu hiệu thánh nhân: người tỉnh táo và do dự, vô ngã và vui đùa